Xây dựng nền công nghiệp tự lực, tự cường

06/09/2023 - 09:33 AM

Những năm qua, triển khai hiệu quả những chủ trương, quyết sách quan trọng của Đảng, Chính phủ, ngành công nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để có nhiều sản phẩm công nghiệp mang thương hiệu Việt Nam đủ lớn, đủ mạnh làm gia tăng giá trị của ngành, xây dựng nền công nghiệp tự chủ, tự lực, tự cường, Việt Nam cần có những bước đi vững chắc với những giải pháp mang tính đột phá.

Triển khai mạnh mẽ nền công nghiệp tự chủ, tự lực, tự cường

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển ngành công nghiệp như: Ngày 9/6/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 879/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; Cũng cùng ngày 9/6/2014 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 880/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Để tạo “lực đẩy” cho phát triển ngành công nghiệp, ngày 22/3/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết số 23-NQ/TW đặt ra, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc XIII ngày 01/02/2021 của Đảng xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2025, tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP và là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; ngày 28/02/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 165/QĐ-TTg Phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 đặt mục tiêu tổng quát phấn đấu đến năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp cao...

Từ những chủ trương, quyết sách của Đảng, Chính phủ, nền công nghiệp nước ta có bước phát triển, trong đó, công nghiệp chế biến chế tạo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp theo hướng phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao và giá trị xuất khẩu lớn; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng dần qua các năm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), bình quân giai đoạn 2016-2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,24%/năm, chiếm tỷ trọng 16,7% GDP năm 2020 và tăng 2,43 điểm phần trăm so với năm 2016; ngành khai khoáng giảm 3,75%/năm, chiếm 5,55% GDP và giảm 2,57 điểm phần trăm. Điều này cho thấy, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp đã theo hướng tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo, nhất là các ngành công nghiệp chế biến sâu, đồng thời giảm tỷ trọng ngành khai khoáng để phát triển bền vững gắn kết với bảo vệ môi trường. Năm 2022, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,10%, đóng góp 2,09 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Bên cạnh sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thì ngành công nghiệp hỗ trợ cũng được quan tâm thúc đẩy, tăng cường liên kết. Các ngành dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản... bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa.

Hiện, công nghiệp Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước và xuất khẩu tới nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có quy mô lớn, chiếm vị trí vững chắc trên thị trường thế giới.

Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mũi nhọn là những doanh nghiệp dẫn đầu ngành công nghiệp, luôn áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao năng suất lao động, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Theo số liệu của TCTK, năm 2022, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 7,69% so với năm trước. Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng cao so với năm trước như: Bia tăng 35,3%; Thủy hải sản chế biến tăng 15,7%; Linh kiện điện thoại tăng 15,1%; Ô tô tăng 14,9%; Xăng, dầu tăng 13,7%; Sơn hóa học tăng 10,4%; Thép thanh, thép góc và xe máy cùng tăng 9,9%; Bột ngọt 9,3%; Giày, dép da tăng 8,8%...

Sự phát triển của ngành công nghiệp góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu lao động, nâng cao năng suất, chất lượng cuộc sống người dân, đồng thời tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp, từ đó giúp nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam. Theo Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam tăng từ vị trí 58 năm 2015 lên thứ 42 vào năm 2019. Về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, theo công bố tại Báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2022 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 2022 Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ qua (tăng 20 bậc), xếp vị trí 48/132 quốc gia.

Xây dựng nền công nghiệp tự lực, tự cường

Đẩy mạnh xây dựng và phát triển nền công nghiệp tự chủ, tự lực, tự cường

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành công nghiệp còn có những hạn chế như: Nội lực của nhiều doanh nghiệp còn yếu; một số sản phẩm công nghiệp còn thiếu tính cạnh tranh và giá trị gia tăng không cao khi còn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu; phát triển công nghiệp chưa tận dụng được những lợi thế cạnh tranh trong kết nối giữa khu vực kinh tế với các địa phương để tạo ra các chuỗi sản xuất công nghiệp.

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay đòi hỏi cần xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường. Việt Nam với nền kinh tế phát triển năng động, hướng đến mục tiêu xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng và phấn đấu đến năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp cao. Để đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hiện nay và mục tiêu phát triển trong thời gian tới, Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 đưa ra định hướng rõ ràng là huy động hiệu quả mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong nước và từ bên ngoài để phát triển, tái cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng hiện đại; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghiệp có kỹ năng.

Ưu tiên phát triển và chuyển giao công nghệ đối với các ngành, các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh và công nghệ hiện đại, tiên tiến ở một số lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản, điện tử, viễn thông, năng lượng mới và tái tạo, cơ khí chế tạo và hóa dược; Điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp hợp lý nhằm phát huy sức mạnh liên kết giữa các ngành, vùng, địa phương để tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Mục tiêu tổng quát đến năm 2025, công nghiệp Việt Nam phát triển với cơ cấu hợp lý theo ngành và lãnh thổ, có khả năng cạnh tranh để phát triển hội nhập, có công nghệ hiện đại và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ở một số chuyên ngành, lĩnh vực, có khả năng đáp ứng cơ bản các yêu cầu của nền kinh tế và xuất khẩu; đội ngũ lao động có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.

Đến năm 2035, công nghiệp Việt Nam được phát triển với đa số các chuyên ngành có công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, cạnh tranh bình đẳng trong hội nhập quốc tế; đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có năng suất cao, chủ động trong các khâu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo.

Về mục tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm công nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 đạt 7,0 - 7,5%/ năm và giai đoạn 2026 - 2035 đạt 7,5 - 8,0%/năm; Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 đạt 11,0 - 12,5%/năm và giai đoạn 2026 - 2035 đạt 10,5 - 11,0%/năm; Phấn đấu đến năm 2025 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 43 - 44% và năm 2035 chiếm 40 - 41% trong cơ cấu kinh tế cả nước; Tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu/tổng kim ngạch xuất khẩu đến năm 2025 đạt 85 - 88%, sau năm 2025 đạt trên 90%; Giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đến năm 2025 đạt khoảng 45% tổng GDP, sau năm 2025 đạt trên 50%; Chỉ số ICOR công nghiệp giai đoạn 2011 - 2025 đạt 3,5 - 4,0%; giai đoạn 2026 - 2035 đạt 3,0 - 3,5% .

Định hướng đến năm 2025 từng bước điều chỉnh mô hình tăng trưởng công nghiệp từ chủ yếu dựa trên số lượng sang dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, đẩy mạnh phát triển các ngành và sản phẩm công nghiệp có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn; gắn kết sản xuất với phát triển dịch vụ công nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là nhóm sản phẩm cơ khí, hóa chất, điện tử viễn thông phục vụ sản xuất công nghiệp, đồng thời tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Tăng cường phát triển công nghiệp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ an ninh, quốc phòng. Từng bước phát triển công nghiệp vật liệu mới và công nghiệp môi trường. Điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp, đảm bảo phù hợp giữa các vùng trên toàn quốc. Phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên tại các vùng công nghiệp lõi được hình thành từ mỗi vùng kinh tế trọng điểm và các khu kinh tế ven biển.

Đến năm 2035, công nghiệp Việt Nam phát triển thân thiện với môi trường, công nghiệp xanh, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp có công nghệ tiên tiến, các sản phẩm của công nghiệp có thương hiệu uy tín, có chất lượng và giá trị cao, mang tính khu vực và quốc tế, có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng tiêu chuẩn của các nước phát triển và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Để phát triển công nghiệp hướng tới tự chủ, tự lực, tự cường trong thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp như:

Về đổi mới cơ chế: Hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước nhằm khắc phục, hạn chế sự chồng chéo, bảo đảm chính sách ổn định, nhất quán và đơn giản về thủ tục hành chính khuyến khích phát triển sản xuất. Tăng cường công tác điều phối phát triển theo ngành, vùng và lãnh thổ, nâng cao hiệu quả của công tác chỉ đạo, điều hành nhằm liên kết có hiệu quả giữa các địa phương trong phát triển công nghiệp. Phân cấp hợp lý để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với quá trình phát triển công nghiệp. Tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, đặc biệt tập trung nâng cao hơn nữa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc thực thi có hiệu quả việc bảo hộ quyền sở hữu và bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy chuẩn, định mức kỹ thuật phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

Về đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: Tái cơ cấu ngành công nghiệp và tái cấu trúc doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước theo Đề án đã được phê duyệt. Điều chỉnh kịp thời phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với tình hình cụ thể; hoàn thiện và ban hành tiêu chí phân loại doanh nghiệp Nhà nước theo ngành nghề, lĩnh vực. Xây dựng cơ chế và lộ trình phát triển số lượng doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, đặc biệt quan tâm đến nâng tỷ trọng doanh nghiệp lớn và vừa trong cơ cấu hệ thống doanh nghiệp cả nước. Khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư cả về nguồn vốn và phạm vi. Củng cố và nâng cao vai trò hoạt động của các tổ chức Hiệp hội ngành nghề, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ; tăng cường tổ chức việc liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài để hợp tác cùng tham gia trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu./.

 Trang Nguyễn

 

 


Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top