Chiến lược công tác dân tộc kết quả sau 5 năm triển khai thực hiện

30/08/2019 - 03:54 PM
Những đổi thay từ triển khai các chính sách dân tộc

Nước ta có 54 dân tộc, trong đó 53 dân tộc thiểu số với 14,6 triệu người, chiếm hơn 14% dân số cả nước. Trong số này, có 5 dân tộc trên 1 triệu người, 16 dân tộc dưới 10.000 người (trong đó có 5 dân tộc dưới 1.000 người). Địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu ở miền núi, biên giới, xen cư với nhau. Đồng bào sinh sống thành cộng đồng ở 5.266 xã, 548 huyện, 51 tỉnh, thành phố. Theo đánh giá, hiện nay hệ thống chính sách dân tộc, miền núi đã không ngừng được hoàn thiện theo hướng đồng bộ, toàn diện, bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống, kinh tế - xã hội, phù hợp với định hướng phát triển chung.

Với  mục tiêu phát triển toàn diện và bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi - địa bàn có vị trí đặc biệt quan trọng về phát triển kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo thống kê, từ năm 2016 đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành 41 văn bản đề cập đến việc ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có 15 đề án chính sách dân tộc. Nguồn ngân sách và huy động nguồn lực đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng tăng. Theo Báo cáo số 412/BC-CP, tháng 9/2018 của Chính phủ về Đánh giá 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số miền núi (2016-2018) tình hình phát  triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được kết quả quan trọng. Theo đó, năm 2017, tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng Tây Bắc đạt 8,4%, Tây Nguyên: 8,09% và Tây Nam Bộ: 7,26%. Cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, thương mại, du lịch, công nghiệp; tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp tuy giảm nhưng bình quân các tỉnh thuộc vùng vẫn chiếm trên 50%.

Cùng với phát triển kinh tế, công tác xóa đói, giảm nghèo cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Đến cuối năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn 6,7% (giảm 1,53% so với cuối năm 2016), trong đó bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn dưới 40% (giảm khoảng 5% so với cuối năm 2016); bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4% so với cuối năm 2016. Tính đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 6%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện giảm trên 4%, đạt mục tiêu Nghị Quyết Đại hội Đảng khóa XII đề ra. Giai đoạn 2016-2018, nguồn lực ngân sách Trung ương bố trí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là 21,6 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 52,1% tổng nhu cầu vốn giai đoạn 2016-2020 (trong đó, vốn đầu tư phát triển là 14,9 nghìn tỷ đồng, vốn sự nghiệp là 6,7 nghìn tỷ đồng).

Kết cấu hạ tầng ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có sự thay đổi rõ rệt, từng bước được hoàn thiện và đồng bộ hóa. Trên 95% số xã đã có đường ôtô đến trung tâm xã được cứng hóa, hầu hết số xã đặc biệt khó khăn đều có điện lưới quốc gia, trạm y tế, trường học, bưu điện văn hóa được xây dựng kiên cố, bán kiên cố. Giai đoạn 2016-2018, Chương trình 135 đã đầu tư 9.106 công trình, duy tu, bảo dưỡng 3.295 công trình; hỗ trợ trực tiếp cho 1.512 triệu hộ nghèo, cận nghèo.

 
Chiến lược công tác dân tộc kết quả sau 5 năm triển khai thực hiện 1

Trong giai đoạn 2016-2017, đã có 1.090 công trình được hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. Ngoài ra còn có hơn 500 công trình được duy tu bảo dưỡng hằng năm. Các công trình được ưu tiên đầu tư là giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, kênh mương nội đồng... Đến nay, đã có 19/291 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; 8 huyện thoát nghèo; 14 huyện hưởng cơ chế theo Nghị quyết 30a thoát khỏi tình trạng khó khăn.

Bên cạnh đó, các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn các xã ngoài Chương trình 30a, Chương trình 135 đã được tập trung xây dựng và nhân rộng 3 mô hình chủ yếu: Mô hình giảm nghèo ở các vùng đặc thù; mô hình giảm nghèo liên kết giữa người nghèo với doanh nghiệp; mô hình giảm nghèo gắn với củng cố an ninh quốc phòng. Đã hỗ trợ xây dựng, nhân rộng khoảng 200 mô hình phát triển sản xuất và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên cả nước. Hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất và nhân rộng mô hình giảm nghèo góp phần tăng thu nhập của hộ nghèo từ 15-20%; bình quân có khoảng 15% hộ gia đình tham gia dự án thoát nghèo; 100% người nghèo tham gia mô hình được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về sản xuất kinh doanh, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật. Công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi đạt nhiều tiến bộ. Trong đó, 100% số xã có trường tiểu học, hầu hết các xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Hệ thống trường nội trú, bán trú ngày càng phát triển. Các tỉnh dân tộc thiểu số và miền núi đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế,...

Mạng lưới y tế ngày càng phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư. Đến nay, đã có 99,4% xã có nhà trạm y tế xã, trong đó có khoảng 60% số trạm y tế xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế đến năm 2020. Đồng bào dân tộc thiểu số cơ bản được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đồng bào nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí. Các dịch bệnh ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, như sốt rét, bướu cổ... cơ bản được khống chế, giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng...

Đặc biệt, giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc đang được quan tâm bảo tồn và phát huy. Các lễ hội truyền thống, tổ chức liên hoan văn hóa, nghệ thuật, thể thao khu vực, thi trang phục truyền thống các dân tộc Việt Nam đã dần được khôi phục... Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát thanh truyền hình, thông tin liên lạc được quan tâm đầu tư đến các xã, vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số được củng cố, kiện toàn và ngày càng phát huy hiệu quả. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố và tăng cường...

... còn đó những khó khăn và hạn chế

Mặc dù có nhiều chính sách nhằm phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, song thực tế cho thấy  đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ở một số địa bàn còn rất khó khăn. Thu nhập bình quân của hộ đồng bào dân tộc thiểu số nhiều nơi chỉ bằng 40-50% bình quân trong khu vực; tỉ lệ dân số dân tộc thiểu số chiếm 14,6% nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả nước. Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa tuy đã được nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp, mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội còn nhiều khó khăn. Khoảng 21% người trên 15 tuổi chưa đọc thông, viết thạo tiếng Việt. Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cao nhưng tỉ lệ khám, chữa bệnh còn thấp. Thụ hưởng văn hóa và tiếp cận các tiến bộ xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương còn hạn chế. Năng lực, trình độ của cán bộ cơ sở, cán bộ người dân tộc thiểu số ở một số địa phương còn yếu; có những vấn đề bức xúc của đồng bào vẫn còn chậm được phát hiện, giải quyết.

Bên cạnh đó, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển các hình thức liên kết, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết việc làm ở vùng nông thôn đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Sản phẩm sản xuất ra không tập trung, khó tiêu thụ, thu nhập không bù đắp đủ chi phí sản xuất. Các mô hình sản xuất hiệu quả còn ít, chưa thực sự bền vững. Kết quả giảm nghèo thiếu tính bền vững, nhất là ở các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn trên 50%, có nơi còn trên 70%. Bên cạnh đó, tỷ lệ tái nghèo cũng còn cao.

Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa phát triển đồng bộ, nhất là đường giao thông ở vùng sâu, vùng núi cao, hải đảo còn nhiều khó khăn. Tình trạng du canh, du cư, di cư tự phát, chặt phá rừng, khiếu kiện, tranh chấp đất đai, hoạt động tôn giáo trái pháp luật... diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, còn có tình trạng nhiều hộ dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất, thiếu đất ở, nước sinh hoạt hợp vệ sinh, chưa được xử lý... Vấn đề môi trường nông thôn còn nhiều bất cập. Hiện chỉ có 35,5% số thôn có xử lý rác thải sinh hoạt.

Một số chính sách ưu đãi về giáo dục dành cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, nguồn cán bộ cho sự phát triển bền vững của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị các cấp còn thấp, chất lượng còn yếu kém. Nhiều tỉnh vùng dân tộc thiểu số và miền núi thiếu cán bộ giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ là người dân tộc thiểu số, nhất là cán bộ giỏi. Người có bảo hiểm y tế tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận với dịch vụ y tế.

Công tác bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống ở các vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của đồng bào các dân tộc. Đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu, yếu…

Lý giải những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, các chuyên gia cho rằng: Hệ thống các chính sách dân tộc chưa thực sự đồng bộ, thiếu kết nối, nội dung còn tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau nên việc triển khai thực hiện đạt hiệu quả chưa cao; Công tác phối hợp giữa các cơ quan trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách chưa chặt chẽ; Cơ chế phân bổ vốn, quản lý, thanh quyết toán các chương trình, chính sách còn nhiều bất cập, khó lồng ghép các nguồn vốn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Bên cạnh đó, chưa có cơ chế đặc thù để phát huy được nội lực người dân, người nghèo trong quá trình hội nhập quốc tế.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược công tác dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc thời gian tới

Để khắc phục tồn tại, hạn chế trong triển khai thực hiện Chiến lược công tác dân tộc, đồng thời thực hiện tốt các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã đưa vào chương trình công tác năm 2019 cần xây dựng đề án tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo hướng tích hợp các chính sách, giải pháp nhằm phát triển nhanh, bền vững hơn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Chính vì vậy, công tác dân tộc thời gian tới cần có chính sách dài hơi và căn cơ hơn. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương, các nhà khoa học, chuyên gia nghiên cứu cần có những đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn về hệ thống chính sách dân tộc giai đoạn 2016-2018. Phân tích đúng thực trạng đời sống, thu nhập, sinh kế và mức độ tiếp cận văn hóa, giáo dục, y tế của đồng bào dân tộc thiểu số, đóng góp nhiều ý tưởng, gợi mở những định hướng cho việc xây dựng hệ thống chính sách dân tộc giai đoạn tới mang tính tổng thể, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả. Với mục tiêu chung của các chính sách là đến năm 2030 thu hẹp một bước chênh lệch giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng phát triển; không còn huyện đặc biệt khó khăn, giảm 50% số xã đặc biệt khó khăn, giảm 60% hộ nghèo dân tộc thiểu số hiện nay; 100% các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi có đủ hạ tầng thiết yếu như đường ô tô cứng hóa đến trung tâm xã, trường học các cấp được kiên cố hóa, 100% trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, nâng cao chất lượng tiếp cận các dịch vụ phúc lợi cơ bản của người dân; không còn tình trạng hộ dân tộc thiểu số nghèo cùng cực; không còn hộ dân tộc thiểu số thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt mà chưa được hỗ trợ.

Để đạt được những mục tiêu trên, một số giải pháp cần triển khai thực hiện Chính sách công tác dân tộc và từng bước xây dựng chính sách dân tộc thời gian tới, đó là:
- Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt mục tiêu đã được đề ra trong Chiến lược công tác dân tộc theo Quyết định 449/ QĐ-TTg và Quyết định 2356/QĐ-TTg của Chính phủ. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương cần coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của cả hệ thống chính trị, nhất là ở các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nhằm tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Duyên hải miền Trung, theo đúng tin thần mà Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã nêu rõ. Tiến hành phân tích kỹ những biến động mới, những xuất hiện mới trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số để làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách; việc đầu tư phải thật sự phù hợp, thiết thực với điều kiện kinh tế - xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tránh trùng chéo.

- Cân đối bố trí đủ nguồn lực thực hiện các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số đang có hiệu lực. Đa dạng hóa các nguồn lực để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

- Đẩy mạnh thực hiện những mục tiêu đã đề ra về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và các chương  trình dự án khác. Cần có cơ chế thu hút doanh  nghiệp  đầu tư vào  khu vực đồng  bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thông qua các hình thức khai thác lợi thế để phát triển kinh tế lâm nghiệp, cây đặc sản, chăn nuôi, du lịch...

- Tiếp tục đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo; thực hiện chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ kinh phí đào tạo đối với các ngành nghề thiếu lao động. Các ngành giáo dục - đào tạo, lao động - thương binh và xã hội cần có sự tính toán, nghiên cứu lại chính sách đào tạo, trường nội trú… qua đó tạo điều kiện học tập, làm việc đối với các con em vùng dân tộc thiểu số.

- Đầu tư phát triển hệ thống y tế; đào tạo nhân lực y tế để chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng dân số, gắn với mục tiêu phát triển bền vững.

- Tăng cường hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực: Kinh tế, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu các ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới, đồng thời huy động tài trợ từ các nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ và quốc tế thông qua các hoạt động hợp tác, đối tác và diễn đàn đối thoại chính sách, các dự án phát triển cộng đồng, vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức để đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ngoài ra, trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, việc xây dựng chính sách dân tộc cần quan tâm tới  tạo điều kiện học tiếng Việt, kỹ năng sống, kỹ năng hội nhập tốt cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời tiến hành thu gọn đầu mối quản lý chính sách, phân cấp đến đối tượng thụ hưởng chính sách, loại bỏ tất cả các khâu trung gian. Trung ương cần ban hành chính sách khung, phân bổ nguồn lực, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, các cấp quản lý và tổ chức thực hiện chính sách…/.

 
Thu Hòa

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top