Dân số Việt Nam chạm mốc 100 triệu người: Triển vọng và thách thức thị trường lao động việc làm

15/06/2023 - 02:15 PM

Tóm tắt: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, dân số Việt Nam năm 2022 đạt trên 99 triệu người, tăng gần 956 nghìn người so năm 2021, trong đó, dân số thành thị trên 37 triệu người, chiếm 37,3%; dân số nông thôn trên 62 triệu người, chiếm 62,7%. Các chuyên gia cho rằng, sự gia tăng dân số thời gian qua đã đem lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với thị trường lao động việc làm tại Việt Nam, đặc biệt khi dân số Việt Nam chạm ngưỡng 100 triệu dân vào năm 2023. Đây vừa là nguồn lực mạnh những cũng là thách thức đặt ra cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách với câu hỏi đặt ra là: Làm sao để tận dụng tối đa thời kỳ cơ cấu dân số vàng góp phần xây dựng đất nước?

Từ khóa: Thị trường lao động việc làm, lực lượng lao động, năng suất lao động, thu nhập

Thị trường lao động việc làm đang phục hồi tích cực

Năm 2022, với các chương trình, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội, thị trường lao động việc làm Việt Nam cơ bản đã phục hồi. Cụ thể, lực lượng lao động  tăng khá nhanh. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2022 đạt 51,7 triệu người, tăng 1,1 triệu người. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,5%, tăng 0,8%.

Số lao động có việc làm tăng trở lại. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2022 là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người. Trong đó, số lao động có việc làm ở khu vực thành thị là 18,6 triệu người, tăng 877,3 nghìn người; lao động ở khu vực nông thôn là 31,9 triệu người, tăng 627,2 nghìn người.

Bước sang quý I/2023, thị trường lao động việc làm tiếp tục duy trì đà phục hồi tích cực. Cụ thể, số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm quý I/2023 là 51,1 triệu người, tăng 113,5 nghìn người so với quý trước và tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, số lao động có việc làm ở khu vực thành thị là 18,9 triệu người (chiếm 37,0%), tăng 120,9 nghìn người so với quý trước và tăng 386,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, lao động có việc làm ở khu vực nông thôn đạt 32,2 triệu người, giảm 7,3 nghìn người so với quý trước và tăng 726,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

 
Hình 1. Lực lượng lao động theo quý, giai đoạn 2020 -2023
 
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, giảm tỷ lệ trong khu vực nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp, dịch vụ. Tính chung cả năm 2022, lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,0 triệu người (chiếm 33,6%), tăng 72 ,6 nghìn người so với năm trước; khu vực dịch vụ được ghi nhận có sự tăng lên mạnh và đạt 19,7 triệu người (chiếm 38,9%), tăng 1,1 triệu người so với năm trước. Lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt mức 13,9 triệu người, (chiếm 27,5%), giảm 352,7 nghìn người so với năm trước. Với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ: Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022, trong đó đặt ra mục tiêu giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội là 27,5% thì mục tiêu này đạt.

Quý I/2023, trong tổng số 51,1 triệu lao động có việc làm, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 39,0%, tương đương gần 20,0 triệu người, tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 33,9%, tương đương 17,3 triệu người. Lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất, 27,1%, tương đương 13,8 triệu người. So với quý trước và cùng kỳ năm trước, qui mô lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đều giảm lần lượt là 285,6 nghìn người và 53,6 nghìn người; lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 360,9 nghìn người so với quý trước và tăng 566,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; lao động trong ngành dịch vụ tăng 38,1 nghìn người so với quý trước và tăng 599,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh số lao động có việc làm tăng, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm trong độ tuổi lao động đều có chiều hướng giảm. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2022 là 2,32%, giảm 0,88%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2022 là 2,21%, giảm 0,89%. Tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn (tương ứng là 1,7% và 2,51%). Tổng số người được tư vấn, giới thiệu việc làm đạt hơn 2,2 triệu lượt người, tăng 24,37% so với năm 2021. Số người được hỗ trợ học nghề là 21.825 người, tăng 18,82% so với năm 2021.
Quý I/2023, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm, còn khoảng 1,05 triệu người, giảm 34,6 nghìn người so với quý trước và giảm 65,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I/2023 là 2,25%, giảm 0,07% so với quý trước và giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước.

 
Hình 2. Số người và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động theo quý, 2020 -2023
 
Số lao động thiếu việc làm trong quý I/2023 cũng đã giảm. Số người thiếu việc làm trong độ lao động tuổi quý I/2023 khoảng 885,5 nghìn người, giảm 12,4 nghìn người so với quý trước và giảm 443,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Năm 2022, chứng kiến sự tăng trưởng ở hầu hết các ngành kinh tế, thu nhập của người lao động tăng ở cả ba khu vực kinh tế so với năm 2021, trong đó, khu vực công nghiệp và xây dựng ghi nhận mức tăng trưởng thu nhập cao nhất. Thu nhập bình quân của người lao động năm 2022 là 6,7 triệu đồng/tháng, tăng 927 nghìn đồng so với năm 2021, tăng 759 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019.

Quý I/2023, thu nhập bình quân tháng của người lao động trong thời gian qua là 7 triệu đồng, tăng 197 nghìn đồng so với quý trước và tăng 640 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị cao gấp 1,41 lần khu vực nông thôn (lần lượt là 8,6 triệu đồng và 6,1 triệu đồng).

Tính chung quý I, thu nhập bình quân của người lao động tăng ở cả 3 khu vực kinh tế. Tuy vậy, sự gia tăng thu nhập của người lao động trong quý này không diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế, trong khi thu nhập bình quân của người lao động một số ngành kinh tế tăng, một số ngành kinh tế khác có sự sụt giảm thu nhập bình quân so với quý trước.

Hoạt động xúc tiến việc làm cũng có nhiều cải thiện tích cực. Theo số liệu của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, năm 2022, đã có142.779 lao động đi làm việc ở nước ngoài (trong đó có 48.835 lao động nữ), vượt xa mục tiêu đề ra, khi đạt 158,64% kế hoạch được giao (90.000 lao động), và bằng 316,87% so với số lượng lao động xuất cảnh của năm 2021 (45.058 lao động). Trong đó, một số thị trường tiếp nhận lao động truyền thống và trọng điểm đều có dấu hiệu khởi sắc, như: Nhật Bản: 67.295 lao động (29.741 nữ); Ðài Loan (Trung Quốc): 58.598 lao động (17.689 nữ); Hàn Quốc: 9.968 lao động (454 nữ)…
 
Lực lượng lao động ngày càng cải thiện về chất
 
Thời gian qua, chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trình độ của lao động chất lượng cao trong giai đoạn 2010-2019 có xu hướng tăng ở tất cả các bậc đào tạo gồm dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học trở lên. Trong đó, số lao động có trình độ cao đẳng và đại học trở lên tăng nhiều hơn cả. Nếu như trong năm 2010, số lao động có trình độ cao đẳng và đại học trở lên lần lượt là 1,7% và 5,7%; thì đến năm 2019, các tỷ lệ này tương ứng là 3,8% và 10,6%. 

Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam từ 40% năm 2010 lên 65% năm 2020, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo liên tục tăng lên qua các năm, từ 15,4% vào năm 2011 đã tăng lên 24,1% vào năm 2021. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo không ngừng tăng lên làm cho chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam không ngừng được cải thiện. Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam liên tục được cải thiện, thể hiện rõ nét nhất ở năng suất lao động của toàn xã hội được nâng cao. Báo cáo Năng suất lao động (NSLĐ) giai đoạn 2011-2020 của TCTK cho biết, trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao NSLĐ, nhờ đó NSLĐ đã có những cải thiện đáng kể cả về giá trị và tốc độ. Năm 2020, NSLĐ của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành ước tính đạt 150,1 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 6.466 USD/lao động), gấp 2,1 lần năm 2011 (70 triệu đồng/lao động).

 
Hình 3. NSLĐ và tốc độ tăng NSLĐ chung toàn nền kinh tế giai đoạn 2011-2020
Giai đoạn 2011-2015, NSLĐ của Việt Nam luôn có xu hướng tăng, trong đó năm 2012 có tốc độ tăng thấp nhất (3,17%) và năm 2015 đạt tốc độ tăng cao nhất (6,83%). Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng NSLĐ toàn nền kinh tế đạt 4,53%.

Giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng NSLĐ từ năm 2016 đến năm 2019 đều đạt trên 6%, trong đó năm 2019 đạt tốc độ tăng cao nhất (6,62%). Năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên tốc độ tăng NSLĐ chậm lại nhưng vẫn đạt gần 5%. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam đạt 6,05%, cao hơn tốc độ tăng bình quân của giai đoạn 2011-2015 là 1,52 điểm phần trăm và vượt mục tiêu tăng NSLĐ bình quân hằng năm đề ra trong Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Giai đoạn 2016-2020: tốc độ tăng NSLĐ bình quân hằng năm cao hơn 5,5%”.

So với năng suất trên mỗi lao động đang làm việc, NSLĐ tính trên giờ làm việc thể hiện bức tranh rõ ràng hơn về sự thay đổi NSLĐ trong nền kinh tế do có thể kiểm soát tốt hơn tình trạng thiếu việc làm hiện phổ biến ở nhiều quốc gia đang phát triển.

Theo kết quả Điều tra lao động việc làm, số giờ làm việc trung bình mỗi tuần của một lao động đang làm việc ở Việt Nam đã giảm dần từ 45,6 giờ trong năm 2011 xuống 41,9 giờ năm 2020. Theo giá hiện hành, NSLĐ trên mỗi giờ làm việc năm 2011 mới chỉ đạt 29 nghìn đồng, đến năm 2016 đạt 45,7 nghìn đồng; năm 2017 đạt 52,1 nghìn đồng; năm 2018 đạt 55,5 nghìn đồng; năm 2019 đạt 63,7 nghìn đồng. Năm 2020, năng suất lao động trên mỗi giờ làm việc theo giá hiện hành đạt 67,6 nghìn đồng/ giờ, cao hơn 3,8 nghìn đồng so với năm 2019 và gấp 2,3 lần năm 2011.

Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng NSLĐ của toàn nền kinh tế đạt 5,29%. Đây là kết quả thể hiện thành công đáng ghi nhận của Việt Nam trong việc nỗ lực phấn đấu nâng cao NSLĐ.

Bên cạnh đó, theo Ngân hàng Thế giới, chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69 trong 10 năm 2010 - 2020. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực.

Tồn tại những khó khăn, thách thức
 
Năm 2023, dân số Việt Nam chạm ngưỡng trên 100 triệu dân, xếp trong nhóm 15 nước có dân số cao nhất trên thế giới. Dân số Việt Nam đông về số lượng, lại đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng nên nếu tận dụng hiệu quả lợi thế này kinh tế Việt Nam sẽ phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, lao động việc làm ở Việt Nam vấp phải rất nhiều thách thức: NSLĐ, trình độ đào tạo, kỹ năng lao động, ý thức chấp hành kỷ luật của người lao động còn hạn chế… Bên cạnh đó, thị trường lao động mặc dù phát triển trong những năm gần đây nhưng vẫn có hiện tượng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ và có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền, khu vực, ngành nghề kinh tế; cơ chế kết nối cung - cầu và tự cân bằng của thị trường còn yếu, mà lý do chính là hệ thống thông tin trên thị trường lao động chưa được phát triển đầy đủ.

Một trong những điểm nghẽn rõ ràng nhất là vấn đề NSLĐ. Báo cáo NSLĐ giai đoạn 2011- 2022 của TCTK cho thấy, dù NSLĐ của Việt Nam đang ngày càng cải thiện, tuy nhiên vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Đáng chú ý, chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Tính theo theo sức mua tương đương 2017 (PPP), NSLĐ của Việt Nam năm 2020 đạt 18,4 nghìn USD, chỉ bằng 11,3% mức năng suất của Xin-ga-po; 23% của Hàn Quốc; 24,4% của Nhật Bản; 33,1% của Ma-lai-xi-a; 59,1% của Thái Lan; 60,3% của Trung Quốc; 77% của In-đô-nê-xi-a và bằng 86,5% NSLĐ của Phi-li-pin. NSLĐ của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn NSLĐ của Cam-pu-chia (gấp 2,4 lần); My-an-ma (1,6 lần); Lào (gấp 1,2 lần).

Nếu tính NSLĐ trên một giờ làm việc (tính theo PPP 2017), năm 2019 của Việt Nam chỉ bằng 8,99% mức năng suất của Xin-ga-po; 9,13% mức năng suất của Bru-nây; 23,21% của Malai-xi-a; 40,31% của Thái Lan; 49,31% của In-đô-nê-xi-a; 57,35% của Phi-li-pin; 99,51% của Lào. NSLĐ của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn NSLĐ của Campuchia (gấp 2 lần) và Mi-an-ma (gấp gần 1,6 lần). So với các nền kinh tế lớn của Châu Á, NSLĐ theo sức mua tương đương (tính theo PPP 2017) năm 2019 của Việt Nam bằng 13,12% Nhật Bản; 16,04% Hàn Quốc; 47,49% Trung Quốc và 77,76% Ấn Độ.

Trong 3 thập niên đổi mới và hội nhập (1990-2020), NSLĐ của Việt Nam mới đạt tốc độ tăng bình quân lần lượt cho 3 giai đoạn là 5,7%/năm, 4%/năm và 5,3%/năm. Tuy vậy, tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam vẫn chưa đủ nhanh để có thể thu hẹp khoảng cách với các quốc gia khác. Theo Báo cáo 2020 của Tổ chức Năng suất Châu Á (APO), NSLĐ Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Ma-lai-xi-a 40 năm và Thái Lan 10 năm…

Không chỉ NSLĐ thấp, trình độ lao động Việt Nam cũng còn tồn tại bất cập. Minh chứng là số lượng lao động có trình độ, kỹ năng nghề cao còn thấp (năm 2022, tỷ lệ lao động có bằng, chứng chỉ đạt 26,2%), chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn rất chật vật để tìm được lao động chất lượng cao dù đã tăng lương, thưởng và chế độ đãi ngộ. Trong một khảo sát của Manpower Group Việt Nam, có khoảng 57% doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân lực chất lượng cao. Tỷ lệ lao động có kỹ năng, tay nghề cao trong các doanh nghiệp nói chung chỉ đạt khoảng 11% và cần cải thiện nhiều kỹ năng mềm lẫn chuyên môn; chỉ có 5% lao động có trình độ tiếng Anh. Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao cũng là thực tế khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại khi thực hiện mở rộng sản xuất kinh doanh.

Để nâng cao chất lượng lao động, từ lâu Việt Nam đã xây dựng chính sách thông thoáng và tạo điều kiện cho xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm và học hỏi kinh nghiệm, nâng cao tay nghề cho lao động tại các nước phát triển. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, hiệu quả đạt được chưa cao. Một số lao động tận dụng cơ hội đi nước ngoài làm việc để tranh thủ làm giàu cho bản thân mà không chú tâm nâng cao tay nghề để trở thành lao động chất lượng cao khi về nước; số ít những lao động được đào tạo bài bản, có tay nghề cao lại tìm cơ hội ở lại định cư tại nước ngoài. Chưa kể, các nước nhập khẩu lao động đa phần tìm kiếm lao động đảm nhiệm các công việc phổ thông.

Yếu tố khác không kém phần quan trọng là kỹ năng của người lao động, kỹ năng làm việc nhóm, ý thức kỷ chấp hành nội quy lao động cũng là những thách thức đối với người lao động Việt Nam.

Rõ ràng, những hạn chế về trình độ, kỹ năng nghề khiến lao động khó có được việc làm bền vững và chuyển dịch linh hoạt trong một thị trường lao động đang biến chuyển không ngừng. Điều này dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc gia còn thấp, chưa tận dụng được hết cơ hội của thời kỳ dân số vàng để thu hút nguồn lực đầu tư FDI.

Giải pháp phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả
 
Với đất nước trăm triệu dân, làm gì để tận dụng tối đa nguồn lực dồi dào đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, góp phần xây dựng đất nước? Trả lời cho câu hỏi này, đầu năm 2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 06/ NQ-CP về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội với rất nhiều nội dung trực tiếp về lao động việc làm, nhằm hỗ trợ đảm bảo an sinh.

Theo Nghị quyết, mục tiêu tổng quát là thị trường lao động phát triển linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập góp phần phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025. Trong đó, các yếu tố của thị trường lao động được phát triển đồng bộ và hiện đại; chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả tổ chức, vận hành thị trường lao động được nâng cao. Thị trường lao động đóng vai trò chủ động trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, đảm bảo kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Cụ thể, phấn đấu đến năm 2025: Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 30%; Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 25% lực lượng lao động; duy trì tỷ lệ thất nghiệp chung ở mức thấp dưới 3%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ thất nghiệp thanh niên thành thị ở mức thấp dưới 7%, tỷ lệ thiếu việc làm của thanh niên nông thôn dưới 6%; tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt 45%, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 85%.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, Nghị quyết nêu rõ các nhiệm vụ và giải pháp gồm:

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý, rà soát sửa đổi các quy định của pháp luật, đáp ứng nhu cầu phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, bao gồm: Nghiên cứu, đề xuất ban hành, sửa đổi các chính sách để hạn chế thất nghiệp, nâng cao chất lượng lao động như: (i) bổ sung, hoàn thiện các chính sách mang tính chủ động, phòng ngừa thất nghiệp; (ii) chính sách hỗ trợ đào tạo nghề thông qua Thẻ học nghề cho người lao động; (iii) quy định các chuẩn chuyên môn và điều kiện đảm bảo triển khai hiệu quả hoạt động đào tạo nghề tại doanh nghiệp.

Thứ hai, phục hồi và ổn định thị trường lao động: Bám sát thực tiễn, quản trị nguồn nhân lực chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách phát triển thị trường lao động với các thị trường khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, trong đó có cung - cầu lao động. Khẩn trương rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng để kịp thời kết nối, cung ứng lao động. Đặc biệt là đánh giá nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài đã có dự án và đang nghiên cứu đầu tư vào Việt Nam.

Thứ ba, thúc đẩy tạo việc làm bền vững và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động: Tăng cường đầu tư, phát triển các ngành kinh tế tạo nhiều việc làm bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững theo hướng nâng cao chất lượng, tạo nhiều việc làm mới có năng suất, chất lượng cao. Tăng cường các nguồn tín dụng để thúc đẩy tạo việc làm mới, sáng tạo, chất lượng cao, bền vững; việc làm xanh; việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số; ưu tiên bố trí vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội có đủ nguồn lực triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho người lao động, góp phần phát triển thị trường lao động bền vững.

Bên cạnh đó, tập trung thực hiện các giải pháp để phân luồng, nâng cao chất lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Khẩn trương triển khai các điều kiện đảm bảo hiệu quả việc phân luồng, liên thông trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thúc đẩy xã hội học tập, học tập suốt đời trong cộng đồng. Tổ chức đào tạo, cung ứng kịp thời nhân lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ.

Thứ tư, nâng cao nhận thức, nhất là người đứng đầu một số cơ quan bộ, ngành, địa phương, đơn vị về vai trò, tầm quan trọng phát triển thị trường lao động; chủ động có giải pháp hiệu quả để đảm bảo và phát triển thị trường lao động bền vững. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền bài bản, kịp thời, liên tục, nâng cao nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động và các chủ thể tham gia thị trường lao động; đảm bảo ổn định và phát triển thị trường lao động.

Bộ LĐ-TB&XH xác định, tăng cường đào tạo nhân lực có kỹ năng nghề, nhất là nhân lực chất lượng cao theo hướng ứng dụng, thực hành, thực tập, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng cho thị trường lao động là một trong những giải pháp trọng tâm trong năm 2023. Cùng với đó là triển khai đào tạo thí điểm chương trình đào tạo cho các ngành, nghề đáp ứng cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; hợp tác với doanh nghiệp trong công tác tuyển sinh, tổ chức đào tạo và giải quyết việc làm cũng sẽ được đẩy mạnh hơn nữa…

Đặc biệt, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 73/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp đủ năng lực đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề của nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Quy mô tuyển sinh, đào tạo, theo trình độ đào tạo đến năm 2030, đạt từ 3.800.000 đến 4.000.000 lượt người/năm, trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp chiếm khoảng 25-30%./.

 
TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy
Viện Nghiên cứu Phụ nữ- Học viện Phụ nữ Việt Nam

 
Tài liệu tham khảo:
  1. Tình hình lao động việc làm quý IV và năm 2022
  2. Tình hình lao động việc làm quý I năm 2023
  3. Nghị quyết 06/ NQ-CP về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội
  4. Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2021
  5. NSLD của Việt Nam giai đoạn 2011-2020: Thực trạng và giải pháp
 
 
 
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top