Để kinh tế biển phát triển bền vững

14/09/2023 - 02:26 PM
Hiện nay, phát triển kinh tế biển được các nước coi như một động lực tăng trưởng mới, bù đắp vào sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế nội địa; đồng thời, cũng là giải pháp để các quốc gia gia tăng ảnh hưởng tại các vùng biển, hải đảo. Việc hướng tới một nền kinh tế xanh trên cơ sở bảo tồn và phát huy các "nguồn vốn biển tự nhiên”, đặc biệt là các nguồn tái tạo năng lượng gió, nuôi biển, du lịch sinh thái... đang được xem là giải pháp căn cơ, lâu dài và bền vững đối với nhiều quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam.

Thực trạng kinh tế biển Việt Nam

Việt Nam là quốc gia biển với đường bờ biển dài hơn 3.260 km và hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ (bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa). Báo cáo "Kinh tế biển xanh - hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển" do Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa công bố cho thấy, Việt Nam có ngư trường đánh bắt truyền thống rộng lớn trong khu vực với hơn 2.000 loài cá, trong đó 130 loài có giá trị kinh tế cao, ngoài ra còn có trên 600 loài giáp xác, nhuyễn thể và rong biển. Hơn thế nữa, các vùng biển và hải đảo của Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú, đa dạng, bao gồm khoảng 12.000 loài sinh vật sống trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái đặc trưng, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác; có khoảng 35 loại khoáng sản với quy mô trữ lượng khai thác khác nhau từ nhỏ đến lớn, thuộc các nhóm: Nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý, đá bán quý và khoáng sản lỏng. Tiềm năng dầu khí phân bố trong các bể trầm tích… Biển Việt Nam được coi là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển của thế giới.

Theo Viện nghiên cứu Hải sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), trữ lượng nguồn lợi hải sản bình quân hàng năm của vùng biển Việt Nam ước tính vào khoảng 4,364 triệu tấn, chưa bao gồm nguồn lợi tại các vùng biển sâu, gò nổi và thềm lục địa. Nguồn lợi thủy sản ven bờ chiếm 12%, vùng lộng 19% và vùng khơi 69%. Ngư trường khai thác thủy sản được phân làm 5 vùng chính bao gồm: Vịnh Bắc bộ chiếm 17,3% nguồn lợi thủy sản, vùng Duyên hải miền Trung chiếm 20,0%, vùng Đông Nam bộ chiếm 25,6%, vùng Tây Nam bộ 13,4% và vùng giữa Biển Đông là 23,7%.

Các vùng biển và hải đảo Việt Nam còn có nguồn tài nguyên du lịch quan trọng. Dọc bờ biển, có hơn 120 bãi tắm có thể phát triển du lịch, trong đó có khoảng 20 bãi có quy mô và tiêu chuẩn quốc tế… Ngoài ra, với vị trí thông thương, Biển Đông nằm trên tuyến giao thông hàng hải huyết mạch nối Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á và Trung Đông - châu Á. Tuyến hàng hải qua Biển Đông là một trong những tuyến giao thương hàng hải quốc tế sầm uất nhất trên thế giới. Sự phát triển của nhiều nền kinh tế ở Đông Á đều gắn liền với tuyến đường biển này. Trong khi đó, bờ biển Việt Nam có hơn 100 vị trí có thể xây dựng các cảng biển lớn, là điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Với những tiềm năng, thế mạnh đó, Việt Nam xác định kinh tế biển chính là động lực, là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Hiện Việt Nam có 28/63 tỉnh, thành phố ven biển, dân số chiếm hơn 50% dân số cả nước, phần lớn lao động làm việc trong các ngành nghề liên quan đến biển. Đóng góp của 28 tỉnh, thành ven biển vào GDP cả nước chiếm khoảng 60-65%. Trong đó, một số tỉnh, thành phố ven biển được Tổng cục Thống kê dự báo có tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2023 cao hơn nhiều so với mức tăng chung của cả nước như: Hải Phòng: 9,94%, Quảng Ninh: 9,46%, Nam Định: 8,5%, Khánh Hòa 7,86%, Thái Bình: 7,77%, Bình Thuận 7,76%, 
Thừa Thiên Huế: 6,51%; Bình Định: 6,46%, Kiên Giang: 6,37%...

 
Để kinh tế biển phát triển bền vững
Kinh tế biển đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội

Nếu tính theo ngành, trong tổng GDP 6 tháng đầu năm 2023 theo giá hiện hành, ngành thủy sản đạt 127,5 tỷ đồng, chiếm 2,69%; ngành khai khoáng đạt 130,8 tỷ đồng, chiếm 2,76%; ngành du lịch (dịch vụ lưu trú, ăn uống) đạt 119,1 tỷ đồng, chiếm 2,51%, trong đó du lịch biển đảo mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch cả nước. 6 tháng đầu năm 2023, vận tải hành khách theo đường biển đạt 7077,4 nghìn hành khách, tăng 49,6% so cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách đạt 388,8 triệu hành khách.km, tăng 48,0%. Vận tải hàng hóa theo đường biển đạt 57444 nghìn tấn, tăng 11,3% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hóa đạt 124570,7 triệu tấn.km, tăng 14,6%. Theo các chuyên gia, trong nền kinh tế biển thì vận tải biển đóng vai trò ngày càng lớn, chiếm 21,7% tổng sản lượng luân chuyển hàng hóa, còn nếu tính về số km thì vận tải biển chiếm đến 52%. Điều đáng nói là trong khi chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành giảm mạnh thì chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 của ngành khai khoáng tăng mạnh như sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế tăng 13,2%; khai thác quặng kim loại tăng 11,5%. Điều đó càng khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước.

Ngoài ra, đóng góp của một số ngành khác như công nghiệp ven bờ, đặc biệt là các khu công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo, như điện gió, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác; đóng góp của một số ngành kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển như dược liệu biển, nuôi trồng và chế biến rong, tảo, cỏ biển… chưa được tính đến.

Đến nay, cả nước có 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích hơn 206.000 ha, trong đó có 185.000 ha biển. Theo đó, các công tác như dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng được tiến hành thường xuyên, kịp thời, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ môi trường biển, giảm thiểu thiên tai tác động xấu đến phát triển kinh tế và đời sống của người dân.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng quy mô kinh tế biển hiện còn khá khiêm tốn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... ở ven biển còn nhỏ, trang bị thô sơ, năng lực còn yếu. Môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu. Đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy sản đang giảm sút nghiêm trọng, thiếu bền vững. Cơ cấu tổ chức trong công tác quản lý biển và hải đảo tại các địa phương chưa có sự thống nhất, nhân lực quản lý về lĩnh vực biển, hải đảo còn mỏng, chưa có nhiều kinh nghiệm…

Giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững

Thực tế hiện nay cho thấy, tình trạng nước biển dâng, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, khó đoán định. Theo Ngân hàng Thế giới, nước biển dâng 5m sẽ khiến Việt Nam mất 16% diện tích đất liền, đe dọa 35% dân số và 35% tổng sản phẩm quốc nội. Các vùng đất thấp ven biển, các rạn san hô vòng cùng hàng loạt hệ sinh thái và cơ sở hạ tầng bị phá hủy do ngập lụt. Với nhận thức tài nguyên biển, môi trường, hệ sinh thái biển,… là những nguồn“vốn biển tự nhiên” quan trọng, là đầu vào cho phát triển kinh tế biển, Việt Nam xác định không thể đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế bằng mọi giá mà cần xem xét trong tổng thể hài hòa giữa lợi ích kinh tế, đảm bảo cân bằng giữa phát triển và bảo tồn biển, đặc biệt là môi trường và các hệ sinh thái biển.

Theo đó, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 khoá XII ban hành trong Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn. Đồng thời, Nghị quyết cũng đưa ra 05 chủ trương lớn, 03 khâu đột khá và 07 nhóm giải pháp, nhấn mạnh, phát triển kinh tế biển và ven biển, phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, dựa trên quy hoạch không gian biển, phát triển kinh tế biển bền vững ứng phó biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh quốc phòng, đối ngoại và hợp tác quốc tế được đặt lên ưu tiên hàng đầu.


Đồng thời, một loạt chính sách cũng được ban hành nhằm phát triển bền vững kinh tế biển như Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36/NQ-CP; Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/6/2020 của Chính phủ về phê duyệt Chương trình tăng cường năng lực và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030; Chỉ thị số 31/CT-TTg, ngày 24/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030”; Quyết định số 729/QĐ-TTg, ngày 16/6/2022, của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình truyền thông về biển và đại dương đến năm 2030...

Ngoài các chủ trương, chính sách trên, các địa phương có biển cần phát triển các khu bảo tồn biển tại các đảo tiền tiêu, kết hợp bảo tồn đa dạng sinh học biển và khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển; khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học biển, phục hồi các hệ sinh thái biển, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển. Xử lý tốt các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển và đại dương từ đất liền, nhất là rác thải nhựa, thông qua việc tăng cường kiểm soát việc thu gom, vận chuyển, xử lý trên đất liền, khu vực ven biển và các đảo; tăng cường sức chống chịu và khả năng thích ứng với những tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây ra.

Bên cạnh đó, cần khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực; thực hiện các dự án thí điểm để tiếp cận tất cả các nguồn năng lượng tái tạo biển, bao gồm năng lượng gió, sóng, thủy triều, dòng chảy, nhiệt và năng lượng mặt trời, nhằm phát huy tối đa tiềm năng về năng lượng tái tạo biển của Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện Đề án phát triển điện khí, năng lượng tái tạo tại vùng biển, ven biển và hải đảo đến năm 2030 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế du lịch biển gắn với nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng biển chất lượng cao ở các vùng trọng điểm cùng các chính sách phát triển sản phẩm du lịch biển đảo tạo ra sự phát triển đột phá cho du lịch biển vươn ra các đảo xa bờ, phối hợp với các địa phương ven biển để tổ chức nhiều hoạt động lễ hội, sự kiện để thúc đẩy phát triển bền vững ngành du lịch biển. Cơ bản hoàn thành các tuyến cao tốc kết nối liên vùng, kết nối các cảng biển cửa ngõ quốc tế, cảng hàng không quốc tế, các cửa khẩu quốc tế chính có nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa lớn để thúc đẩy kinh tế hàng hải phát triển…/.
 
TS. Nguyễn Thị Anh Trâm - TS. Ngô Anh Cường
Trường Đại học Lao động - Xã hội
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top