Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam quý III và 9 tháng năm 2019

28/09/2019 - 02:01 PM
BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
 
Kinh tế - xã hội nước ta 9 tháng năm 2019 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức gia tăng. Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung diễn biến khó lường, căng thẳng địa chính trị leo thang ở Vịnh Ba Tư, nguy cơ Brexit không có thỏa thuận và bất ổn chính sách gia tăng trên toàn cầu, niềm tin kinh doanh và tâm lý thị trường tài chính giảm sút, thương mại và đầu tư thế giới giảm. Các tổ chức quốc tế liên tục đưa ra dự báo thiếu lạc quan về tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2019. Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của kinh tế toàn cầu 9 tháng năm 2019 phản ánh tăng trưởng tiếp tục suy giảm từ mức cuối năm 2018. Chỉ số PMI trong lĩnh vực chế biến chế tạo toàn cầu tháng 8 đạt 49,5 điểm thấp nhất từ năm 2012, phản ánh sản xuất toàn cầu bị co lại.
 
Theo WTO, Chỉ số triển vọng thương mại thế giới thấp nhất từ năm 2010. Đầu tư toàn cầu chưa phục hồi. Cùng với đó, hầu hết các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế đều đưa ra dự báo thiếu lạc quan về tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2019. Ngày 23/7/2019, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và OECD tiếp tục giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu trong năm 2019 từ 3,3% xuống còn 3,2%. Đây là lần thứ ba kể từ đầu năm, IMF giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu. Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đưa ra dự báo về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2019 chỉ đạt mức 2,6% giảm 0,3 điểm phần trăm so với mức tăng 2,9% mà tổ chức này đưa ra hồi tháng 01.
 
Theo dự báo của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) ngày 25/9/2019, tăng trưởng kinh tế năm 2019 của Hoa Kỳ giảm 0,3 điểm phần trăm từ 2,6% xuống 2,3%; khu vực đồng Euro giảm 0,3 điểm phần trăm từ 1,3% xuống 1,0%; Trung Quốc giảm 0,1 điểm phần trăm từ 6,3% xuống 6,2%; ASEAN giảm 0,3 điểm phần trăm từ 4,8% xuống 4,5%.
 
Nguyên nhân giảm tốc tăng trưởng kinh tế thế giới:
 
- Kinh tế thế giới bước vào chu kỳ tăng trưởng chậm lại sau kỳ tăng trưởng tích cực từ cuối năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2018; nhiều lĩnh vực bước vào bão hòa, điển hình như lĩnh vực hàng điện tử; bất ổn tài chính tại một số thị trường mới nổi; sự suy yếu của các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là khu vực châu Âu.
 
- Căng thẳng thương mại quốc tế, đặc biệt chiến tranh thương mại - Công nghệ Mỹ - Trung. Nhiều rào cản mới đối với thương mại, đầu tư quốc tế được dựng lên. Theo đánh giá của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), số lượng rào cản thương mại các nước G20 mới dựng lên trong nửa đầu năm 2019 bao phủ lượng giao dịch thương mại gấp hơn 3,5 lần bình quân từ năm 2012 đến nay, môi trường thương mại trở nên ngột ngạt.
 
- Về chính trị, các điểm nóng và xung đột chính trị tăng nhiệt, nguy cơ xung đột giữa Mỹ với Iran và Triều Tiên có thể tác động rất tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế thế giới. Mỹ gây căng thẳng với Iran ngoài yếu tố chiến lược, an ninh còn yếu tố năng lượng.
 
- Căng thẳng sau hội nghị thượng đỉnh G20 vào cuối tháng 6 vừa qua, khi các chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu bị đe dọa do các biện pháp trừng phạt của Mỹ, những trở ngại xung quanh sự kiện Brexit, giá dầu chao đảo do bất ổn địa chính trị leo thang.
 
Trong nước, nền kinh tế 9 tháng năm nay tiếp tục chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp nhưng cũng đối mặt không ít khó khăn, thách thức với thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng; ngành chăn nuôi gặp khó khăn khi dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng; nhiều mặt hàng nông sản, thủy sản không thuận lợi về thị trường và giá xuất khẩu; giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp.
 
Năm 2019, Chính phủ thống nhất phương châm hành động: Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2019. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, Ngành, địa phương nêu cao tinh thần trách nhiệm, quán triệt tinh thần chỉ đạo điều hành quyết liệt, thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện ở từng cấp, từng ngành, khắc phục những tồn tại hạn chế, nhất là sự trì trệ, chậm trễ, kém hiệu quả. Thủ tướng và các Phó thủ tướng chính phủ đã chủ trì nhiều hội nghị quan trọng như: Hội nghị tìm giải pháp cho tăng trưởng kinh tế năm 2019, từ kết quả của Hội nghị Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 01/4/2019 về các giải pháp tập trung tháo gỡ cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng 6 tháng và cả năm 2019; Hội nghị Phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm; Hội nghị Nâng cao năng xuất lao động quốc gia; Hội nghị Thúc đẩy phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2019... Với nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, các thực thể khác trong nền kinh tế và chỉ đạo điều hành của Chính phủ, kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng như sau:
 
I. KẾT QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI QUÝ III VÀ 9 THÁNG NĂM 2019
 
Trong bối cảnh kinh tế, thương mại, chính trị, an ninh thế giới có nhiều nét đáng lo ngại, tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2019 đạt 6,98% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao nhất của 9 tháng trong 9 năm trở lại đây, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát thấp nhất trong 3 năm 2017-2019. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm dần, thu nhập của người lao động tăng lên. An sinh xã hội được quan tâm thực hiện.
 
1. Tăng trưởng kinh tế
 
(1) Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2019 ước tính tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 6,82% của quý I và 6,73% của quý II năm nay, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,53%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,05% và khu vực dịch vụ tăng 7,11%. Tăng trưởng của quý III năm nay tuy thấp hơn mức tăng 7,38% của quý III/2017 nhưng cao hơn mức tăng của quý III các năm 2012-2018[1].
 
(2) GDP 9 tháng năm 2019 tăng 6,98%, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong 9 năm trở lại đây[2]. Kết quả tăng trưởng khẳng định tính quyết đoán, kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng năm 2019. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,02% (cùng kỳ năm 2018 tăng 3,7%), đóng góp 4,8% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,36%, đóng góp 52,6%; khu vực dịch vụ tăng 6,85%, đóng góp 42,6%. Trên góc độ sử dụng GDP 9 tháng năm 2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,20% so với cùng kỳ năm 2018; tích lũy tài sản tăng 7,68%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 7,41%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,78%.
 
(3) Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2019 gặp nhiều khó khăn do hạn hán và biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng, trong đó sản lượng lúa 9 tháng giảm gần 460 nghìn tấn so với cùng kỳ năm trước. Dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất của ngành chăn nuôi. Nhiều mặt hàng nông sản gặp khó khăn cả về thị trường và giá xuất khẩu. Ngành nông nghiệp chưa có dấu hiệu phục hồi khi chỉ đạt mức tăng 0,74%, thấp hơn cùng kỳ năm 2017, năm 2018. Ngành thủy sản là điểm sáng của khu vực này với mức tăng trưởng 6,12%. Ngành lâm nghiệp tăng 3,98%.
 
(4) Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 9 tháng duy trì mức tăng trưởng cao 9,56%. Ngành xây dựng 9 tháng duy trì mức tăng trưởng khá với tốc độ 8,33%.
 
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ chốt là động lực dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế với mức tăng 11,37%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,7%, bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,43%; khai khoáng bước đầu có mức tăng nhẹ 2,68% sau nhiều năm liên tiếp giảm nhờ khai thác than tăng cao, bù đắp cho sự sụt giảm của khai thác dầu thô.
 
(5) Trong khu vực dịch vụ, các ngành dịch vụ thị trường là động lực và có tỷ trọng đóng góp lớn vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế 9 tháng năm nay hầu hết đều đạt mức tăng trưởng khá: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,31% so với cùng kỳ năm trước, là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực dịch vụ, cũng là ngành trong khu vực dịch vụ có đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế (0,89 điểm phần trăm); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,19%; ngành vận tải, kho bãi tăng 7,82%; thông tin và truyền thông tăng 7,65%...
 
Nhìn chung, hoạt động dịch vụ trong 9 tháng diễn ra sôi động, cầu tiêu dùng trong dân tăng, thị trường tiêu thụ được mở rộng, nguồn cung hàng hóa dồi dào, chất lượng được bảo đảm, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2019 đạt 3.634,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá tăng 9,2%.
 
(6) Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,20% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,98%; khu vực dịch vụ chiếm 42,74%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,08% (cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2018 là: 13,94%; 33,50%; 42,51%; 10,05%).
 
(7) Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu khác cũng cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế:
 
Theo báo cáo của Nikkei, tâm lý kinh doanh vẫn rất lạc quan khi chỉ số PMI của Việt Nam trong 8 tháng năm nay tiếp tục duy trì mức trên 51 điểm- mức cao hơn các nước trong khu vực, các nhà sản xuất cho rằng sản lượng sẽ tăng trong thời gian tới và kỳ vọng nhu cầu thị trường cải thiện, số lượng đơn đặt hàng mới tăng.
 
Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo do Tổng cục Thống kê thực hiện trong quý III/2019 cũng cho thấy đa số các doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn, có 81,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III năm nay ổn định và tốt hơn quý trước, trong đó:
 
Về khối lượng sản xuất, có 81,3% DN dự báo tăng và giữ ổn định (45,2% DN dự báo tăng và 36,1% DN giữ ổn định).
 
Về đơn đặt hàng, có 81,8% DN dự báo tăng và giữ ổn định (40,4% DN dự báo tăng và 41,4% giữ ổn định).
 
Về đơn đặt hàng xuất khẩu, có 83,1% DN dự báo tăng và giữ ổn định (trong đó số DN dự báo tăng là 34,6% và 48,5% dự báo giữ ổn định).
 
Đặc biệt, các doanh nghiệp lạc quan với tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2019 với 87,9% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên và ổn định (52,1% doanh nghiệp dự báo tốt lên và 35,8% dự báo ổn định).
 
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
 
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2019 ước tính đạt 382,72 tỷ USD, mức cao nhất của 9 tháng từ trước đến nay.
 
(1) Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng đạt 194,3 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước,trong đó khu vực kinh tế trong nước có tốc độ tăng 16,4%, cao hơn tốc độ tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (5%). Đây là kết quả đáng mừng đối với xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh thương mại toàn cầu và kinh tế của các nước có quan hệ thương mại lớn với Việt Nam suy giảm.
 
Trong 9 tháng năm 2019 có 26 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 89,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó có 5 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 59,2%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 38,6 tỷ USD, chiếm 19,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 25,4 tỷ USD, tăng 16,9%; dệt may đạt 24,8 tỷ USD, tăng 10,4%; giày dép đạt 13,3 tỷ USD, tăng 13,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 12,9 tỷ USD, tăng 7,5%. Do giá xuất khẩu bình quân của nhiều mặt hàng nông sản giảm so với cùng kỳ năm trước (giá hạt điều giảm 21,8%; hạt tiêu giảm 22,7%; gạo giảm 13,7%; cà phê giảm 9,9%; cao su giảm 1,4%) nên kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông, thủy sản 9 tháng năm nay đều giảm: Thủy sản đạt 6,2 tỷ USD, giảm 1,7%; rau quả đạt 2,8 tỷ USD, giảm 4,6%; hạt điều đạt 2,4 tỷ USD, giảm 6% (lượng tăng 20,2%); cà phê đạt 2,2 tỷ USD, giảm 20,7% (lượng giảm 12%); gạo đạt 2,2 tỷ USD, giảm 9,7% (lượng tăng 4,5%); hạt tiêu đạt 593 triệu USD, giảm 6,4% (lượng tăng 21,1%).
 
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 9 tháng năm 2019, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 44,9 tỷ USD, tăng 28,2% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU đạt 31,1 tỷ USD, giảm 0,7%; Trung Quốc đạt 27,8 tỷ USD, giảm 3,8%; thị trường ASEAN đạt 19,4 tỷ USD, tăng 4,7%; Nhật Bản đạt 15,1 tỷ USD, tăng 10%; Hàn Quốc đạt 14,5 tỷ USD, tăng 8,1%.
 
(2) Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 9 tháng năm 2019 ước tính đạt 188,42 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78,97 tỷ USD, tăng 14%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 109,45 tỷ USD, tăng 5,5%.
 
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 9 tháng năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 55,5 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 35,4 tỷ USD, tăng 1%; thị trường ASEAN đạt 24,1 tỷ USD, tăng 3,8%; Nhật Bản đạt 14,1 tỷ USD, tăng 1,8%; thị trường EU đạt 11 tỷ USD, tăng 10,3%; Hoa Kỳ đạt 10,7 tỷ USD, tăng 12,6%.
 
(3) Cán cân thương mại hàng hóa 9 tháng năm 2019 ước tính xuất siêu 5,9 tỷ USD[3], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 19,4 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 25,3 tỷ USD.
 
II. KẾT QUẢ CỦA NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO
 
1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
 
Trong 9 tháng năm nay, cả nước có gần 102,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.290,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,9% về số doanh nghiệp và tăng 34% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 12,6 tỷ đồng, tăng 26,6%. Nếu tính cả 1.730,4 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 9 tháng năm 2019 là 3.021,2 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 27,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 9 tháng năm nay lên hơn 129,8 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng đầu năm nay là 929,8 nghìn người, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.
 
Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong 9 tháng năm nay là 21,2 nghìn doanh nghiệp, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm trước; doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể là 28,2 nghìn doanh nghiệp, trong đó có 11,9 nghìn doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo chương trình chuẩn hóa dữ liệu năm từ năm 2018; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 12,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 4,7%.
 
2. Đầu tư
 
Trong 9 tháng năm 2019, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành ước tính đạt 1.378,3 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước và bằng 34,3% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước chiếm 31% tổng vốn và tăng 3% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước chiếm 45,3% và tăng 16,9%; khu vực FDI chiếm 23,7% và tăng 8,4%.
 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/9/2019 thu hút 2.759 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 10,97 tỷ USD, tăng 26,4% về số dự án và giảm 22,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, có 1.037 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 4,78 tỷ USD, giảm 13,6% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 9 tháng năm nay đạt 15,76 tỷ USD, giảm 19,9% so với cùng kỳ năm 2018. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng ước tính đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong 9 tháng còn có 6.502 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 10,4 tỷ USD, tăng 82,3% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó có 1.348 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 6,34 tỷ USD và 5.154 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 4,06 tỷ USD.
 
Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 9 tháng năm nay có 117 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn của phía Việt Nam là 307,7 triệu USD; 27 dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 124 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 9 tháng năm 2019 đạt 431,7 triệu USD.
 
3. Khách quốc tế đến Việt Nam
 
Việt Nam tiếp tục là điểm đến thu hút khách du lịch quốc tế, tháng Chín là tháng thứ tư kể từ đầu năm nay và là tháng thứ hai liên tiếp có lượng khách quốc tế đến nước ta đạt trên 1,5 triệu lượt người[4]. Tính chung 9 tháng năm 2019, khách quốc tế đến nước ta đạt 12,9 triệu lượt người, trong đó khách đến từ Trung Quốc chiếm 30,9% và khách đến từ đường bộ có tốc độ tăng cao nhất, đạt 23,5% so với cùng kỳ năm trước.
 
4. Lạm phát được kiểm soát
 
Giá dịch vụ giáo dục được điều chỉnh tăng theo lộ trình nhằm tiệm cận với giá thị trường, giá thịt lợn tăng do nguồn cung giảm, thời tiết mưa lũ kéo dài ở một số địa phương là những yếu tố chủ yếu làm chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2019 tăng 0,32% so với tháng trước, bình quân 9 tháng tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2018, đây là mức tăng bình quân 9 tháng thấp nhất trong 3 năm gần đây[5].
 
Lạm phát cơ bản tháng 9/2019 tăng 0,16% so với tháng trước và tăng 1,96% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm 2019 tăng 1,91% so với bình quân cùng kỳ năm 2018.
 
5. Lao động việc làm và thu nhập
 
Tình hình lao động, việc làm cả nước trong 9 tháng năm 2019 có nhiều chuyển biến tích cực, số người có việc làm tăng, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm dần. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, chất lượng lao động ngày một nâng cao, thu nhập của người lao động có xu hướng tăng dần.
 
Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong 9 tháng năm 2019 là 54,4triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước 9 tháng năm 2019 là 1,99%, trong đó khu vực thành thị là 2,94%; khu vực nông thôn là 1,52%.Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi 9 tháng năm nay là 1,32%, trong đó khu vực thành thị là 0,73%; khu vực nông thôn là 1,63%.
 
Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương 9 tháng năm 2019 ước tính là 6,71 triệu đồng/tháng, trong đó thu nhập của lao động nam là 7,1 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,2 triệu đồng/tháng, lao động thành thị là 7,8 triệu đồng/tháng, lao động nông thôn là 5,9 triệu đồng/tháng.
 
 
 
III. MỘT SỐ THÁCH THỨC CỦA NỀN KINH TẾ
 
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu suy giảm, bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam quý III và 9 tháng năm 2019 tiếp tục có những chuyển biến tích cực là nhờ sự điều hành kịp thời, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Nền kinh tế 9 tháng năm nay đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 9 năm trở lại đây, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Công nghiệp chế biến, chế tạo và các ngành dịch vụ thị trường có mức tăng cao, giữ vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Môi trường kinh doanh ngày càng cải thiện, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng nhanh. Cung cầu hàng hóa trong nước được bảo đảm, tiêu dùng tăng cao, xuất khẩu và thu hút khách du lịch quốc tế đạt khá. Số người có việc làm tăng, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm dần, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, chất lượng lao động ngày một nâng cao, thu nhập của người dân cải thiện, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện.
 
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế cũng như tiếp tục đối mặt với những thách thức mới:
 
- Tỷ lệ vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ ước tính bằng 59,5% kế hoạch được giao. Thực trạng thu hút vốn đầu tư trong 9 tháng cho thấy việc giải ngân vốn đầu tư công vẫn là 1 điểm nghẽn, ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Hạn chế về hạ tầng có thể khiến nhà đầu tư phải cân nhắc khi sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, dịch vụ logicstics của Việt Nam khá đắt, chiếm khoảng 16%-20% GDP làm cho hàng hóa nói chung và hàng xuất khẩu kém tính cạnh tranh hơn.
 
- Thời tiết diễn biến phức tạp, dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng ảnh hưởng nặng nề đến kết quả sản xuất ngành trồng trọt và chăn nuôi. Hạn hán và biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng lúa, sản lượng lúa 9 tháng giảm gần 460 nghìn tấn so với cùng kỳ năm trước. Ngành chăn nuôi đang phải đối mặt với diễn biến phức tạp của dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng. Dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 7.612 xã, 642 huyện của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tổng số lợn phải tiêu hủy trên cả nước là hơn 5 triệu con, chiếm khoảng 19% tổng đàn. Tổng đàn lợn của cả nước tháng Chín giảm 19% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng giảm 9%.
 
- Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản, thủy sản được xem là thế mạnh trong lĩnh vực xuất khẩu giảm đáng kể. Do giá xuất khẩu bình quân của nhiều mặt hàng nông sản giảm so với cùng kỳ năm trước (giá hạt điều giảm 21,8%; hạt tiêu giảm 22,7%; gạo giảm 13,7%; cà phê giảm 9,9%; cao su giảm 1,4%) nên kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông, thủy sản 9 tháng năm nay đều giảm: Thủy sản đạt 6,2 tỷ USD, giảm 1,7%; rau quả đạt 2,8 tỷ USD, giảm 4,6%; hạt điều đạt 2,4 tỷ USD, giảm 6% (lượng tăng 20,2%); cà phê đạt 2,2 tỷ USD, giảm 20,7% (lượng giảm 12%); gạo đạt 2,2 tỷ USD, giảm 9,7% (lượng tăng 4,5%); hạt tiêu đạt 593 triệu USD, giảm 6,4% (lượng tăng 21,1%).
 
- Ngoài ra, với độ mở lớn cùng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi các diễn biến kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường. Căng thẳng thương mại tiếp tục leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc; sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu có thể khiến thương mại toàn cầu sụt giảm, gây tác động tiêu cực tới hoạt động thương mại và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
 
IV. GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
 
Để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, tạo đà thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, trong thời gian tới, các cấp, các ngành và địa phương cần bám sát tình hình thực tiễn, tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và các văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, trong đó tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:
 
Một là, tập trung xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai, thủ tục hành chính, thể chế để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công kế hoạch năm 2019, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Có giải pháp thu hút, lựa chọn và hấp thu vốn FDI và ODA. Tổ chức thực hiện nhanh và hiệu quả Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tạo niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư và nhân dân để huy động các nhà đầu tư và nhà thầu trong nước tham gia vào hoạt động đầu tư và thi công. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích thành lập doanh nghiệp mới. Tiếp tục có chính sách hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp, đặc biệt trong việc cập nhật thông tin, thủ tục liên quan đến đấu thầu các công trình, dự án và tạo môi trường đấu thầu cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính, giảm các thủ tục rườm rà đối với doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các dự án với nguồn vốn vay ưu đãi. Thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, có giải pháp khuyến khích phát triển nhà ở thương mại giá thấp, nhà ở xã hội.
 
Hai là, điều chỉnh phương án sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với các vùng, miền nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh lương thực, tăng cường sản xuất đối với cây trồng ngắn ngày, nâng cao chất lượng các loại cây ăn quả phục vụ xuất khẩu. Điều chỉnh phương thức sản xuất trong ngành trồng trọt, chuyển dần sang hướng tập trung tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, hình thành sự liên kết từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, thực hiện cơ giới hóa trong khâu thu hoạch nhằm giảm giá thành, nâng cao hiệu quả và ổn định trong sản xuất. Tập trung nguồn lực để ngăn chặn dịch tả lợn châu Phi lan rộng, hạn chế thiệt hại cho ngành chăn nuôi, ưu tiên bảo vệ tốt đàn lợn nái phục vụ cho công tác tái đàn sau khi khống chế được dịch bệnh. Ngành thủy sản cần gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, phân tích và dự báo tốt các tín hiệu của thị trường để có những bước đi phù hợp.
 
Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo, nhất là công nghiệp chế biến sâu, chế biến sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng tiêu dùng, đồng thời giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp đối với các sản phẩm được sản xuất ở Việt Nam, hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ sản xuất trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa.
 
Bốn là, nâng cao kết quả hoạt động mở rộng thương mại quốc tế, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại thế hệ mới (CPTPP, EVFTA…), đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, tránh sự phụ thuộc vào một thị trường nhất định, đặc biệt là xuất khẩu hàng nông sản, thủy sản, cần giải quyết có hiệu quả vấn đề kiểm dịch động thực vật, bảo đảm vệ sinh an toàn chất lượng để thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này. Tận dụng cơ hội mang lại từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, lựa chọn đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng trong danh mục áp thuế của hai nước. Đối với sản phẩm cá tra, để giữ vững thị phần trên thị trường thế giới cần khuyến cáo người nuôi tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt các quy định của nhà nhập khẩu, không nên mở rộng diện tích sản xuất.
 
Năm là, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, thận trọng, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng tín dụng đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Các bộ, ngành, địa phương theo dõi sát tình hình giá cả, thị trường trong nước và thế giới, diễn biến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, biến động của đồng đô la Mỹ, đồng Nhân dân tệ và giá cả các mặt hàng để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, thực hiện lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý vào thời điểm thích hợp, bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2019 dưới 4%. Chủ động chuẩn bị nguồn hàng thiết yếu và hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng gia tăng vào thời điểm cuối năm.
 
Sáu là, theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở nhằm hạn chế tối đa thiệt hại. Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ./.
 
 TỔNG CỤC THỐNG KÊ
 


[1]Tăng trưởng GDP quý III một số năm: Năm 2012 tăng 5,39%; năm 2013 tăng 5,54%; năm 2014 tăng 6,07%; năm 2015 tăng 6,87%; năm 2016 tăng 6,56%; năm 2017 tăng 7,38%; năm 2018 tăng 6,82%; năm 2019: 7,31%.
[2]Tăng trưởng GDP 9 tháng của một số năm: Năm 2011 tăng 6,03%;năm 2012 tăng 5,10%; năm 2013 tăng 5,14%; năm 2014 tăng 5,53%; năm 2015 tăng 6,53%; năm 2016 tăng 5,99%; năm 2017 tăng 6,41%; năm 2018 tăng 6,96%; năm 2019: 6,98%.
[3] Trong đó, 9 tháng năm 2019 xuất siêu sang EU đạt 20,1 tỷ USD, giảm 5,9% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 27,7 tỷ USD, tăng 50,4%; nhập siêu từ Hàn Quốc 20,9 tỷ USD, giảm 3,4%; nhập siêu từ ASEAN 4,7 tỷ USD, tăng 0,3%.
[4]Các tháng kể từ đầu năm có lượng khách quốc tế đến nước ta đạt trên 1,5 triệu lượt người (Tháng Một: 1,5 triệu lượt người; tháng Hai: 1,59 triệu lượt người, tháng Tám: 1,51 triệu lượt người, tháng Chín: 1,56 triệu lượt người).
[5]Tốc độ tăng CPI bình quân 9 tháng so với cùng kỳ năm trước: năm 2017 là 3,79%; năm 2018 là 3,57% và năm 2019 là 2,5%.

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top