Tranh truyền thống rực rỡ sắc màu với nhiều đề tài phong phú nhưng gần gũi với đời sống và quan niệm, tín ngưỡng dân dan không đơn thuần chỉ để trang trí cho sắc xuân trong gia đình Việt ngày Tết, mà còn là không gian văn hóa với những giá trị thẩm mỹ, triết lý xã hội và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Vì vậy, thú chơi tranh dân gian đã trở thành phong tục độc đáo, là một trong những thú chơi tao nhã trong dịp Tết đến xuân về của người Việt xưa còn lưu truyền đến ngày nay.
Thú chơi tranh ngày Tết đã lưu truyền từ rất lâu trong dân gian ở thành Thăng Long xưa cũng như khu vực trung du Bắc Bộ, với các dòng tranh dân gian nổi tiếng. Thường sau ngày ông Công ông Táo 23 tháng Chạp Âm lịch, các gia đình đi chợ Tết, chợ hoa để sắm đồ, mua đào, quất và những bức tranh mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống Việt Nam về treo ngày Tết. Người dân treo tranh truyền thống với hy vọng đón vinh hoa, phú quý về nhà; đồng thời cũng mang ý nghĩa như một thông điệp, một lời cầu chúc cho gia chủ một năm phát tài, phát lộc, vạn sự như ý.
Tranh Tết Việt Nam rất đa dạng về thể loại như: Tranh tín ngưỡng, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh châm biếm, tranh phong cảnh... Theo thói quen lâu đời, ở gian thờ cúng tổ tiên, các gia đình thường treo tranh mâm ngũ quả; ngoài cổng thường dán hai bức tranh, một bên là ông Tiến tài, một bên là ông Tiến lộc, với mong muốn đón nhiều tài lành, phúc ấm cho gia chủ. Cũng có nhà lại dán cặp tranh thần hộ mệnh là những ông tướng nhà trời để xua đuổi ma quỷ, bảo vệ cho gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng. Các dòng tranh dân gian mang đậm truyền thống văn hóa thường được treo trong ngày Tết có thế kể đến: Tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh Kim Hoàng (Hà Nội), tranh Hàng Trống (Hà Nội) và tranh làng Sình (Huế).
Tranh Đông Hồ, tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là dòng tranh dân gian xuất xứ từ làng Đông Hồ, tỉnh Bắc Ninh. Tranh dân gian Đông Hồ mang theo ngôn ngữ tạo hình đơn giản, hình tượng rõ ràng, gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, dễ đi vào lòng người với những ấn tượng sâu sắc, phản ánh ước mơ, khát vọng sống của con người về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc, thường được các gia đình Việt ưa chuộng, chọn treo vào dịp Tết Nguyên đán.
Tranh Đông Hồ Đám cưới chuột
Chỉ với 4 màu cơ bản: Đen, vàng, đỏ, xanh, các nghệ nhân vẫn làm nên những bức tranh hết sức sống động, hài hòa và vô cùng độc đáo. Một điều đặc biệt, không phải ai cũng biết đó là việc dùng màu sắc trong tranh Đông Hồ có ý nghĩa riêng và phù hợp với mỗi đề tài khác nhau, điển hình là nền màu vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh Đông Hồ ngày Tết. Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và có sức cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ người Việt cũng như du khách nước ngoài cũng bởi những đề tài trên tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá người Việt, nhất là trong dịp Tết, như: Tranh “Mẹ con đàn gà”, “Mẹ con đàn lợn” với ước vọng gia đình đông vui, hòa thuận; Tranh “Vinh Hoa”, “Phú Quý” với cậu bé mũm mĩm ôm gà, ôm vịt tượng trưng cho điềm phúc; Tranh “Gà trống” sặc sỡ và oai vệ, tượng trưng cho Ngũ Quý…
Khác với tranh dân gian Đông Hồ, tranh dân gian Hàng Trống được in từ bản khắc nét màu đen trên giấy dó, sau đó nghệ nhân mới dùng màu nước tô vờn màu theo khối. Nhiều khi chỉ bằng một nét bút, một lần lấy mực là có thể diễn tả màu sắc thành đậm, nhạt, sáng tối, hình khối. Bởi vậy, tranh dân gian Hàng Trống có độ sâu, uyển chuyển và sống động với nhiều mẫu đẹp, sang trọng, được đặc tả kỹ với các chủ đề như: Tranh “Tố nữ” thể hiện vẻ đẹp dịu dàng, mới mẻ và thân thuộc giữa con người với thiên nhiên; Tranh “Tứ quý” thể hiện ước vọng 4 mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông luôn tràn ngập âm thanh vui tươi; Tranh “Lý ngư vọng nguyệt” với mong muốn đỗ đạt, như cá chép vượt vũ môn hóa rồng; Tranh “Thất đồng” vẽ 7 em bé vui chơi với cây đào tiên đang ra hoa kết trái, thỏa mãn mong ước của con người về một cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc, Tranh “Tam đa” tượng trưng cho phúc đức, tài lộc và sống lâu...Bên cạnh những bức tranh Tết mang đậm sắc thái văn hoá, lịch sử, tâm linh, mọi người cũng có thể dành vị trí trang trọng trong nhà để đón chào năm mới bằng những bức vẽ hình con giáp đại diện cho năm sắp tới. Ngoài ra, do có gắn bó mật thiết với sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, tranh Hàng Trống được đặt ở vị thế cao hơn trong bản đồ tranh dân gian Việt Nam nên dòng tranh này rất được ưu ái mỗi dịp xuân về.
Trong khi đó, tranh Kim Hoàng cũng là dòng tranh dân gian phát triển khá mạnh từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX của làng Kim Hoàng (vốn là làng Kim Bảng và Hoàng Bảng), xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội. Tranh Kim Hoàng mang nét đặc trưng khác biệt với hầu hết các dòng tranh dân gian khác bởi màu sắc đặc biệt, còn được gọi là “Tranh Đỏ”. Tranh Kim Hoàng được in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng.
Nhớ về những ngày giáp Tết xưa, không khí trở nên nhộn nhịp ở các gia đình làm tranh, mọi thành viên trong các gia đình làm tranh Kim Hoàng làm việc tất bật, làm ngày rồi tối đến lại chong đèn ba dây mà chấm phẩm. Sau một tháng làm tranh, đến ngày rằm tháng Chạp, phường tranh làm Lễ Thánh sư, rồi mới mang tranh đi bán. Tranh Kim Hoàng được quẩy về bán tại các chợ như: Chợ Sấu Giá, chợ Sơn Đồng, chợ Chùa Thầy, chợ Phùng, chợ Vạng, chợ Trạm Trôi, chợ Canh, chợ Diễn, chợ Tây Tựu... rộ nhất là từ ngày Tết ông Táo (23 tháng Chạp). Thời kỳ hưng thịnh, mỗi chợ có đến 5 - 10 chiếu tranh Kim Hoàng được bày bán.
Khác biệt hơn cả là tranh làng Sình chất chứa nét đẹp văn hóa làng xã xưa, mang đậm nét đặc sắc của xứ Huế mộng mơ, góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú cho dòng tranh dân gian của dân tộc Việt Nam. Xuất xứ từ địa danh của rất nhiều những tín ngưỡng văn hóa dân gian như lễ thờ cúng tổ tiên; lễ kỵ giỗ; lễ cúng “bất đắc kỳ tử”; lễ tảo mộ; lễ cúng gia tiên theo sóc vọng lễ tiết; lễ trai điếu bạt độ; thờ thần cửa ngõ; lễ cúng tiên sư;… Vì vậy, tranh mộc bản ở Sình, ngay từ khi ra đời không thuần túy là dòng tranh phục vụ cho các thú chơi tao nhã, mà chủ yếu là nhu cầu tín ngưỡng, dùng để thờ, để hóa trong các lễ cầu an, giải hạn, lễ Tết. Chủ đề trong tranh làng Sình chia thành ba nhóm chính là tranh nhân vật, tranh súc vật và tranh đồ vật.
Tranh làng Sình hoàn toàn làm thủ công. Để có một bức tranh phải trải qua đủ 7 công đoạn, từ xén giấy, quét điệp, in tranh trên mộc bản, phơi tranh, pha màu, tô màu, cuối cùng là điểm nhãn. Giấy dó được quét điệp cho dai, giữ màu; vỏ điệp được nhập từ phá Tam Giang rồi người làm tranh phải tỉ mẩn ngồi giã, nghiền thật nhỏ, trộn với lớp bột gạo thành một lớp mịn quét đều lên giấy. Gam màu sử dụng trên tranh làng Sình gần giống với gam màu được sử dụng trên tranh pháp lam tại các kiến trúc kinh thành Huế. Đó là sự hoà sắc giữa vàng với chàm, đỏ với bích ngọc, xanh với hoả hoàng, phỉ thúy với hổ phách. Bức tranh khi hoàn thành sẽ lấp lánh bởi vỏ điệp, nền nã bởi chất màu thô mộc, quyến rũ và quan trọng hơn cả là khi bức tranh đến tay người sử dụng đã ẩn chứa một điều gì đó thiêng liêng của cõi tâm linh.
Ngày nay, với nhu cầu của xã hội hiện đại, ngoài dòng tranh thờ cúng, tranh Sình có thêm các nội dung khác để trang trí thuộc đề tài dân gian và tranh bát âm, làm phong phú thêm cho tranh làng Sình. Đó có thể là hội vật với các thế vật ngồi, nằm, đứng; hay các trò chơi kéo co nam, nữ, bịt mắt bắt dê…; rồi hình ảnh bát âm gồm nhị, nguyệt, trống, sáo, đàn bầu, tỳ bà, đàn tranh.
Những năm gần đây, nhiều giá trị văn hóa dân gian truyền thống được người dân quan tâm phục dựng. Tranh dân gian truyền thống cũng có xu hướng quay trở lại, mang theo sắc xuân điểm tô cho không gian gia đình ngày Tết. Bên cạnh đó, tranh Tết không còn bó hẹp với các dòng tranh dân gian truyền thống mà được đón nhận dưới góc nhìn cởi mở hơn, hiện đại hơn. Ngoài những bức tranh dân gian theo lối vẽ và chất liệu truyền thống còn xuất hiện tranh Tết có chất liệu đa dạng như: Tranh chạm khắc gỗ, tranh đá quý, tranh gốm sứ, tranh đồng, tranh thêu, tranh khảm trai... mang đậm dấu ấn cá nhân. Tuy hình thức, chất liệu có thể đổi mới, nhưng vẫn dựa trên những đề tài của tranh dân gian xưa và hàm chứa quan niệm sống, có mục đích giáo dục ngay từ đầu năm mới, như rèn đức, luyện tài, tích phúc, để đức cho con cháu đời sau và đem theo sức sống, hơi thở ấm áp, tươi đẹp của mùa xuân.
Thú chơi tranh Tết dù là tranh dân gian truyền thống hay tranh hiện đại đều thể hiện ước vọng của con người cho một năm mới tốt lành. Đây là một phong tục thể hiện nét đẹp văn hóa quý báu, trở thành một phần không thể thiếu trong việc khơi gợi không gian văn hóa đậm sắc màu của của ngày Tết cổ truyền trên quê hương Việt Nam./.
Duy Hưng