Tiếp tục chú trọng công tác phòng ngừa tai nạn và chăm sóc sức khỏe người lao động

25/08/2022 - 09:17 AM
Công tác an toàn, vệ sinh lao động có nhiều chuyển biến tích cực

Những năm qua, cùng với việc phát triển kinh tế - xã hội, công tác an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) đã có những chuyển biến và đạt được một số kết quả tích cực. Với các hoạt động phổ biến kiến thức về ATVSLĐ, nhận thức và hiểu biết về công tác ATVSLĐ của người lao động và người sử dụng lao động đã dần được nâng cao. Vai trò người lao động trong công tác an toàn - vệ sinh lao động được phát huy đã góp phần hạn chế tai nạn lao động và giảm thiểu thiệt hại do tai nạn lao động. Nhiều sáng kiến cải tiến kĩ thuật do chính người lao động đưa ra đã góp phần giải quyết ngay những vấn đề trong hạn chế nguy cơ rủi ro dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại nơi làm việc.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, kết thúc giai đoạn 2016-2020 của Chương trình Quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động, tần suất tai nạn lao động dẫn đến tử vong đã giảm 16,99% so với giai đoạn 2011-2015. Số người lao động đã được khám phát hiện bệnh nghề nghiệp (BNN) trên 960 nghìn, chiếm tỷ lệ 43,68% tổng số mắc nguy cơ; trên 4.500 doanh nghiệp được tư vấn xây dựng, ứng dụng hiệu quả hệ thống quản lý ATVSLĐ, trong đó có trên 445 doanh nghiệp được hỗ trợ chuyên sâu, làm mẫu xây dựng hệ thống quản lý ATVSLĐ đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về ATVSLĐ, xây dựng văn hóa an toàn trong lao động. Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội đạt 14,13 triệu người, tăng 28,57% so với giai đoạn 2011-2015.

 
Tiếp tục chú trọng công tác phòng ngừa tai nạn và chăm sóc sức khỏe người lao động
Ảnh minh họa, nguồn Internet

Kết quả thực hiện Chương trình cũng cho thấy, đã có trên 4,5 nghìn người làm công tác quản lý, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác ATVSLĐ cấp quận, huyện, phường, xã, thị trấn và trong ban quản lý các khu công nghiệp; trên 65 nghìn người làm nghề, công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ, gần 33 nghìn người làm công tác ATVSLĐ, trên 8 nghìn người làm công tác y tế cơ sở và trên 5 nghìn an toàn, vệ sinh viên trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hỗ trợ phổ biến thông tin về ATVSLĐ thường xuyên, liên tục tại 63 tỉnh/thành phố, 80% làng nghề (2,35 nghìn làng nghề), 70% số hợp tác xã (14,96 nghìn hợp tác xã) có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được tiếp cận thông tin phù hợp về ATVSLĐ, đạt mục tiêu đề ra. Trong đó, có 6 loại hình làng nghề với 60 làng nghề đã ứng dụng thành công mô hình quản lý ATVSLĐ.

Trên cơ sở kế thừa và phát huy hiệu quả của Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2016-2020, tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về mục tiêu bảo đảm an toàn lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 16/2/2022 ban Hành Chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2021-2025 tiếp tục được kỳ vọng sẽ đem lại hiệu quả cao hơn trong công tác này. Mục tiêu của Chương trình hướng tới là chăm lo cải thiện điều kiện làm việc; phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe người lao động; bảo đảm an toàn tính mạng cho người lao động, tài sản của Nhà nước, tài sản của doanh nghiệp, của tổ chức, góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia.

Cụ thể đến năm 2025, trung bình mỗi năm giảm 4% tần suất tai nạn lao động chết người, tăng thêm 5% số người lao động được khám bệnh nghề nghiệp, 5% số cơ sở được quan trắc môi trường lao động. Công tác giáo dục, đào tạo về VSATLĐ cũng được chú trọng với mục tiêu trên 90% số người làm công tác quản lý, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động cấp quận, huyện và trong các ban quản lý khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được tập huấn nâng cao năng lực về an toàn, vệ sinh lao động. Trên 80% số người lao động làm các nghề, công việc có yêu cầu lao động; 80% số người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động được huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao động. Trên 80% số làng nghề, hợp tác xã có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được tiếp cận thông tin phù hợp về an toàn, vệ sinh lao động. Trên 80% người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được hưởng chế độ bồi thường, trợ cấp theo quy định của pháp luật. 100% số vụ tai nạn lao động chết người được khai báo, điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Đặc biệt, cần chú trọng, ưu tiên các ngành, nghề có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Riêng với khối doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh cần chú trọng vào các lĩnh vực: Khai khoáng; sản xuất hóa chất, sản phẩm từ cao su và plastic; sản xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại; thi công công trình xây dựng; đóng và sửa chữa tàu biển; sản xuất, truyền tải và phân phối điện; sản xuất sản phẩm dệt, may… Còn đối với các làng nghề, cần tập trung ưu tiên công tác ATVSLĐ ở các lĩnh vực: Cơ khí, tái chế phụ liệu; chế biến lương thực, thực phẩm; ươm tơ, dệt nhuộm, may mặc; thủ công mỹ nghệ…

 
Nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp đối với công tác ATVSLĐ

Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra trong công tác bảo đảm VSATLĐ đối với người lao động, trước tiên, cần tập trung vào vấn đề hoàn thiện chính sách, nâng cao hiệu quả pháp luật. Cụ thể: Cần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và nâng cao năng lực thanh tra, kiểm tra, giám sát, cung cấp dịch vụ công về an toàn, vệ sinh lao động lao động. Nghiên cứu, đề xuất chính sách phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; xây dựng và hoàn thiện phương pháp xác định nghề nặng nhọc, độc hại nguy hiểm, gắn với các chỉ tiêu đánh giá điều kiện lao động trong xu thế hội nhập quốc tế. Đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, cơ sở vật chất và nhân lực cho các hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác an toàn, vệ sinh lao động; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đặc thù an toàn lao động; quan trắc môi trường lao động; chẩn đoán, giám định, điều trị và phục hồi chức năng cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Tăng cường thông tin, tuyên truyền, huấn luyện nâng cao nhận thức về an toàn vệ sinh lao động bằng cách tiếp tục đổi mới nội dung và đa dạng hóa các hình thức thông tin, tuyên truyền, hoàn thiện chương trình, tài liệu huấn luyện, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao động. Hỗ trợ huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động cho người nông dân theo phương pháp giáo dục hành động; vận động nông dân đăng ký cam kết đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động; huấn luyện đảm bảo an toàn sử dụng khí gas trong các hộ tiêu thụ, đặc biệt đối với hộ gia đình; bảo đảm an toàn trong sử dụng điện tại khu vực nông thôn, khu dân cư, trường học.

Bên cạnh đó, các giải pháp tăng cường công tác ATVSLĐ cũng bao gồm việc triển khai áp dụng các hệ thống quản lý công tác an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và làng nghề. Trong đó đặc biệt chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ về an toàn, vệ sinh lao động; hỗ trợ triển khai mô hình các giải pháp kỹ thuật an toàn để phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại, trong các ngành, nghề có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Tăng cường tư vấn các biện pháp và mô hình cải thiện điều kiện làm việc đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề, hợp tác xã, hộ nông dân làm các nghề, công việc có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Hỗ trợ kiểm định và triển khai các biện pháp phòng, chống tai nạn lao động khi sử dụng máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động trong khu vực doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể. Hỗ trợ triển khai áp dụng các hệ thống quản lý công tác an toàn, vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và làng nghề đang có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm vận động nguồn lực hỗ trợ đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động. Mở rộng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động với quốc tế, đặc biệt là các quốc gia thuộc Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Tiếp tục thực hiện các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động quốc tế về an toàn, vệ sinh lao động...

Bên cạnh đó, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, giữa các cơ quan có liên quan, các tổ chức chính trị, xã hội, hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ trong triển khai thực hiện các mục tiêu của Chương trình. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các quốc gia tham gia và đóng góp nguồn lực, kinh nghiệm để thực hiện Chương trình. Đồng thời xây dựng và triển khai các chương trình hành động để triển khai chương trình quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động; lồng ghép các hoạt động của Chương trình với các dự án, chương trình khác trong lĩnh vực lao động. Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thực hiện Chương trình; phối hợp, lồng ghép nguồn lực của Chương trình với các nguồn lực hiện có như nguồn Quỹ Bảo hiểm y tế, Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao đông và bệnh nghề nghiệp… và nguồn xã hội hóa./.

Minh Huyền
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top