Sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre có nhiều thuận lợi

04/12/2023 - 12:23 PM

     Về trồng trọt
Cây lúa: Trong tháng, người trồng lúa trên địa bàn tỉnh tập trung chăm sóc cây lúa vụ Thu đông năm 2023. Vụ lúa Thu đông toàn tỉnh xuống giống ước khoảng 8.645 ha. Thời tiết thuận lợi, nguồn nước tưới đầy đủ, sâu bệnh xảy ra ít và mức độ nhẹ nên lúa phát triển tốt.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng ước tính đến nay là 136 ha, giảm 6,21% (tương ứng giảm 9 ha) so với cùng kỳ năm. Phần lớn diện tích ngô được trồng luân canh trên diện tích đất trồng lúa và diện tích đất trồng rau màu các loại. Diện tích ngô ở tỉnh Bến Tre hầu hết là nhóm ngô thực phẩm tiêu dùng hàng ngày. Tổng sản lượng thu trong tháng là 68 tấn, lũy kế 11 tháng ước tính là 442 tấn đạt 77,82% so với cùng kỳ năm trước.

 Cây rau các loại: Cây rau các loại được người dân trên địa bàn tỉnh canh tác quay vòng quanh năm. Phần lớn diện tích rau tỉnh Bến Tre chỉ được trồng tập trung và có giá trị cao ở các huyện: Ba Tri, Thạnh Phú và Bình Đại; số diện tích còn lại chỉ trồng nhỏ lẻ mang tính tự cung, tự cấp nhằm bổ sung bữa ăn cho hộ gia đình. Tổng diện tích toàn tỉnh ước tính đến nay là 4.077 ha, tăng 2,75% (tương ứng tăng 109 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng cây rau các loại toàn tỉnh trong tháng ước tính là 6.770 tấn, giảm 11,4% (tương ứng giảm 849 tấn) so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm đến nay ước tính là 87.204 tấn, tăng 0,98% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân do năng suất thu hoạch tăng.

 Cây dừa: Tổng diện tích dừa toàn tỉnh đến nay ước tính là 78.463 ha, tăng 0,56% (tương ứng tăng 434 ha) so cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, diện tích dừa tăng so cùng kỳ nguyên nhân là do một số diện tích lúa không hiệu quả hoặc không còn phù hợp với vùng canh tác được người dân chuyển sang trồng dừa vì cây dừa dễ trồng và ít tốn công cũng như chi phí chăm sóc. Diện tích tăng chủ yếu là dừa xiêm xanh uống nước vì hiệu quả từ loại trái dừa này khá cao. Giá dừa khô hiện nay vẫn còn ở mức khá cao so với các tháng trước dao động từ 60.000 - 70.000 đồng/12 quả. Tổng sản lượng dừa trong tháng ước tính là 59.824 tấn (tương đương 59.824 nghìn quả), tăng 2,65% (tương ứng tăng 2.830 tấn) so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm đến nay ước tính là 634.614 tấn, tăng 0,57% so với cùng kỳ năm trước. Tổng diện tích dừa xiêm xanh uống nước toàn tỉnh hiện nay ước tính là 19.865 ha, chiếm 25% trong tổng diện tích dừa của tỉnh.

Cây ăn quảTổng diện tích cây ăn quả toàn tỉnh hiện có là 25.192 ha, chiếm 24,06% trong tổng diện tích cây lâu năm; giảm 1,35% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích giảm chủ yếu là do chuyển từ vùng đất trồng chôm chôm, măng cụt, cam, bưởi... không hiệu quả sang trồng dừa, ươm cây giống lâu năm (ở huyện Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc); diện tích nhãn của xã Phú Thuận huyện Bình Đại giảm do giải phóng mặt bằng xây dựng Khu công nghiệp...
 Thời tiết và mùa vụ thuận lợi nên tổng sản lượng trái cây các loại trong tháng ước tính là 20.105 tấn, giảm 3,09% (tương ứng giảm 641 tấn) so cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm đến nay là 293, tăng chủ yếu ở nhóm cây: xoài, sầu riêng, mít, chanh, bưởi,...

 Về chăn nuôi

Đàn bò: Tổng đàn bò toàn tỉnh ước tính là 234.650 con, tăng 0,35% (tương ứng tăng 813 con) so với cùng kỳ. Ước tính sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng trong tháng là 2.725 tấn, tăng 1,3% (tương ứng tăng 35 tấn) so cùng kỳ. Lũy kế từ đầu năm đến nay, tổng sản lượng thịt bò hơi ước tính là 29.043 tấn. Tại thời điểm báo cáo giá bò hơi khoảng 82.000 đồng/kg, giá ổn định so với tháng trước.  Đàn bò sữa của tỉnh ước tính là 1.660 con, giảm 3,49% (tương ứng giảm 60 con) so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do chi phí nuôi tăng, người nuôi thu lợi nhuận thấp.

Đàn lợn: Tình hình chăn nuôi lợn trong tháng có nhiều chuyển biến tích cực, giá lợn hơi cải thiện, phần lớn hộ xuất chuồng có lợi nhuận. Một số hộ nuôi duy trì và phát triển đàn nái sinh sản, chủ động được con giống tăng đàn lợn thịt và đàn nái hậu bị. Tuy nhiên, khó khăn của người chăn nuôi là chi phí con giống, thức ăn, thuốc thú y tăng cao. Hiện tại, đang vào thời điểm chuẩn bị phục vụ thị trường cuối năm nên tổng đàn có xu hướng dần tăng trở lại. Tổng đàn lợn toàn tỉnh ước tính là 445.630 con, so cùng kỳ năm trước tăng 2,22% (tương ứng tăng 9.666 con). Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng trong tháng ước tính là 6.020 tấn, giảm 4,75% (tương ứng giảm 300 tấn) so với cùng kỳ. Lũy kế từ đầu năm đến nay, sản lượng thịt lợn hơi ước tính là 64.485 tấn, giảm 2,20% so với cùng kỳ năm trước. Tại thời điểm báo cáo, giá lợn thịt bình quân 50.000 - 51.000 đồng/kg, ổn định so với tháng trước. Lợn giống 90.000 đồng/kg (trọng lượng 9 -12 kg).

Đàn gia cầm: Đến thời điểm báo cáo, tổng đàn gia cầm toàn tỉnh ước là 7.239 nghìn con (không tính đàn chim cút, bồ câu), giảm 3,85% (tương ứng giảm 290 nghìn con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong tháng ước là 3.230 tấn, giảm 6,84% (tương ứng giảm 237 tấn) so với cùng kỳ. Lũy kế từ đầu năm đến nay ước tính là 33.856 tấn, giảm 4,71% so với cùng kỳ năm trước. Đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh thời gian qua có phục hồi nhưng vẫn còn thấp so với cùng kỳ. Nguyên nhân giá thức ăn đầu vào tăng ở mức rất cao, nhưng giá cả đầu ra không ổn định, hộ chăn nuôi theo hình thức nhỏ lẻ nên phương thức mua bán qua nhiều mối lái trung gian nên bị ép giá người chăn nuôi chưa yên tâm phát triển. Tình hình cụ thể như sau:

       + Tổng đàn gà toàn tỉnh ước là 6.280 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước đàn gà giảm 3,98% (tương ứng giảm 260 nghìn con). Ước sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng trong tháng là 2.430 tấn, giảm 6,9% (tương ứng giảm 180 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 11 tháng là 20.354 tấn giảm 9,23% so với cùng kỳ. Tại thời điểm báo cáo, giá gà có dấu hiệu giảm, giá gà thịt hơi khoảng 78.000 - 80.000 đồng/kg.

     + Tổng đàn vịt, ngan, ngỗng toàn tỉnh ước là 959 nghìn con, giảm 3,03% (tương ứng giảm 30 nghìn con); sản lượng thịt vịt, ngan, ngỗng hơi trong tháng ước là 800 tấn, giảm 6,65% (tương ứng giảm 57 tấn) so với cùng kỳ năm trước.  Tại thời điểm báo cáo giá vịt siêu thịt hơi xuất chuồng giá 45.000 đồng/kg, giảm 3.000 đồng/kg so với tháng trước, ngan thịt hơi giá 60.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg, trứng vịt 3.500 đồng/quả.

Chăn nuôi khác: Tình hình chăn nuôi dê hiện nay đang đối mặt với nhiều thách thức, giá dê sụt giảm mạnh gây khó khăn cho không ít hộ nuôi dê. Với tình hình trên, nhiều gia đình có kinh nghiệm nuôi dê lâu năm vẫn "bám nghề” với hi vọng giá dê sẽ tăng lên. Bên cạnh đó có một số hộ đã chuyển sang chăn nuôi các loại vật nuôi khác. Hiện nay, giá cả đầu ra dê thịt duy trì ở mức trung bình, với mức giá này nếu hộ nuôi với số lượng nhiều thì cũng thu được lãi tương đối. Ngoài ra, phân dê cũng được hộ tận dụng làm phân bón bón cho cây trồng, mang lại hiệu quả rất tốt. Tại thời điểm báo cáo giá dê thịt hơi là 87.000 đồng/kg. Dê giống giá bình quân là 100.000 đồng/kg.

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Bến Tre

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top