Mỗi làng một sản phẩm - Hướng đi để xây dựng nông thôn mới bền vững

02/06/2019 - 12:28 PM
Mô hình “mỗi làng một sản phẩm” (One village one product - OVOP) được khởi xướng đầu tiên tại Nhật Bản từ thập niên 70 của thế kỷ trước, nhằm phát huy thế mạnh của mỗi làng và tiếp sức cho sản phẩm trong nước vươn ra toàn cầu. Thực hiện mô hình, mỗi làng, xã ở nước này đã lựa chọn và tập trung sản xuất một sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường, để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh địa phương. Nhờ đó, không ít đặc sản của các địa phương vốn có quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ đã trở thành thương hiệu lớn, không chỉ nổi tiếng tại Nhật Bản mà còn xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Mô hình OVOP trong 40 năm qua đã đạt được thành công lớn, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp Nhật Bản, tạo ra lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, giúp làm tăng giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, từ đó tăng đáng kể thu nhập cho người dân nông thôn. Đến nay, mô hình OVOP của Nhật Bản đã lan tỏa sang nhiều quốc gia trên thế giới như Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Trung Quốc...
 
Mỗi làng một sản phẩm  Hướng đi để xây dựng nông thôn mới bền vững

Ảnh minh họa, nguồn Internet
 
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, có nhiều làng nghề, đặc biệt là trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thu hút hàng chục triệu lao động. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ chính của các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm làng nghề phần lớn là trong nước, trong khi thị trường tiêu thụ nước ngoài chưa ổn định, quy mô sản xuất sản phẩm địa phương còn nhỏ lẻ, phương thức sản xuất thủ công, trình độ lao động yếu, chất lượng sản phẩm chưa cao… Do đó, việc học hỏi và triển khai mô hình OVOP của Nhật Bản được xem là một hướng đi đầy kỳ vọng, sẽ phát huy nội lực trong dân, phát huy lợi thế địa phương, giúp định hướng phát triển kinh tế nông thôn và đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới ở nước ta.
 
Năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã triển khai thí điểm Đề án “Mỗi làng một nghề” tại 8 tỉnh, thành trên cả nước (Điện Biên, Hòa Bình, Quảng Nam, Bắc Ninh, An Giang, Nam Định, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh). Mục đích của chương trình là nâng cao thu nhập cho thành viên tham gia, từ đó thúc đẩy đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo nội lực tốt để phát triển nông thôn bền vững. Thực hiện chương trình OVOP, Nhà nước định hướng kiến tạo và hỗ trợ đổi mới công nghệ, đào tạo lao động, xây dựng phân cấp và quảng bá sản phẩm. Trong khi người dân nông thôn (hộ và nhóm hộ) tự lựa chọn sản phẩm lợi thế, đầu tư công nghệ, nâng cao tay nghề, tổ chức sản xuất và quản lý từ khâu nguyên liệu đến tiêu thụ để tạo ra sản phẩm chất lượng cao.
 
Sau một thời gian thực hiện, nhiều làng nghề truyền thống (nghề thêu, dệt thổ cẩm, mây tre đan…) đã được khôi phục. Chương trình đã tạo ra một số sản phẩm có triển vọng như: Thổ cẩm tại bản Na Sang II (xã Núa Ngam, tỉnh Điện Biên), ấp Srây Skốt (xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang); Sản phẩm đúc đồng tại xã Đại Bái (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), thị trấn Lâm (huyện Ý Yên, Nam Định); Đá, gỗ điêu khắc tại các làng ở xã Hiền Giang (Thường Tín, Hà Nội)... Không ít sản phẩm được đánh giá cao về chất lượng và mẫu mã, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời các làng nghề trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách đến Việt Nam.
 
Một điển hình trong phong trào OVOP ở nước ta là tỉnh Quảng Ninh. Sau khi nghiên cứu kỹ chương trình OVOP của Nhật Bản cũng như kết quả đạt được tại một số tỉnh thực hiện thí điểm, năm 2013, Quảng Ninh đã triển khai chương trình OCOP (One commune one product - OCOP) và đưa thành chương trình kinh tế trọng điểm của địa phương. Chương trình OCOP đã nhận được sự quan tâm, tham gia của cả hệ thống chính trị trong tỉnh và được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống từ việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện, ban hành các cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực từ nội lực cộng đồng, đến hướng dẫn quy trình triển khai, xúc tiến thương mại... Quảng Ninh đã tập trung hướng phát triển vào nhóm sản phẩm lợi thế như: Lợn Móng Cái, gà Tiên Yên, tôm thẻ chân trắng, hàu Thái Bình Dương; Ba kích, trà hoa vàng; Miến dong, gạo nếp cái hoa vàng... Đồng thời, ban hành một loạt các chính sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị tham gia, cũng như tạo cơ sở để thực hiện chương trình trong dài hạn như: Hỗ trợ lãi suất tiền vay, ứng dụng công nghệ, mua sắm máy móc, thuê gian hàng, tổ chức hội chợ. Quảng Ninh cũng chủ động nghiên cứu ban hành bộ công cụ quản lý chương trình, đó là: Nhãn hiệu OCOP; Bộ tiêu chí đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP; Chu trình chuẩn OCOP (gồm 6 bước tiến hành).
 
Với sự chung tay của các ban, ngành và người dân địa phương, chương trình OVOP tại Quảng Ninh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.Tính đến năm 2016, toàn tỉnh Quảng Ninh đã có 198 sản phẩm mới, trong đó có 99 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên (mục tiêu đề ra là phát triển 40 - 60 sản phẩm), tổng giá trị hàng hóa bán ra của OCOP trong 03 năm (2013-2016) đạt 672,3 tỷ đồng, gấp 3 lần kế hoạch đặt ra. Tỉnh đã xây dựng quy hoạch 17 vùng sản xuất tập trung cấp tỉnh và trên 50 vùng sản xuất tập trung cấp huyện, xã, giúp đầu tư, khai thác có hệ thống tiềm năng, lợi thế của mỗi địa bàn. Đến cuối năm 2018, tổng số sản phẩm tham gia chương trình OCOP của Quảng Ninh đã tăng lên 362 sản phẩm thuộc 5 nhóm sản phẩm và dịch vụ, trong đó có 131 sản phẩm đã đạt sao (7 sản phẩm đạt 5 sao, 56 sản phẩm đạt 4 sao, 68 sản phẩm đạt 3 sao).
 
Doanh thu từ sản phẩm OCOP Quảng Ninh ngày càng cao, trong 6 tháng đầu năm 2018 đạt trên 239 tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ 2017; lợi nhuận đạt 27,7 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ 2017. Bên cạnh đó, chương trình OCOP đã tạo việc làm cho khoảng 3,5 nghìn lao động với mức thu nhập bình quân từ 5 - 9 triệu đồng/người/tháng. Toàn tỉnh có 29 trung tâm, cửa hàng, điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP, trong số đó có 10/29 điểm bán hàng OCOP được hỗ trợ từ ngân sách. Điều đáng mừng là số hộ, nhóm hộ đăng ký tham gia OCOP ngày càng tăng. Tính đến cuối năm 2018, Quảng Ninh có 145 tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp tham gia OCOP; trong đó có 44 doanh nghiệp, 64 hợp tác xã, 56 hộ sản xuất.
 
Sau 5 năm triển khai cho thấy, chương trình OCOP là hướng đi đúng, sáng tạo của Quảng Ninh trong phát triển sản phẩm hàng hóa theo chuỗi giá trị, gắn các tổ chức sản xuất với sản phẩm, phát huy những lợi thế, thế mạnh của địa phương, thực hiện cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và đưa người nông dân chủ động hội nhập, tiếp cận với kinh tế thị trường. Chương trình OCOP đồng thời đóng góp tích cực trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới của Tỉnh.
 
Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và thành công bước đầu của tỉnh Quảng Ninh, năm 2017, OCOP được chọn làm chương trình để nhân rộng, triển khai trên phạm vi toàn quốc. Đến nay, các tỉnh, thành trong cả nước đang đồng loạt lập Đề án Chương trình OCOP và đã có hơn 30 tỉnh, thành phố triển khai chương trình OCOP theo các quy mô khác nhau, trong một thời gian ngắn đã tạo ra hàng nghìn sản phẩm, hàng hóa đa dạng.
 
Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, tính đến tháng 5/2018, cả nước có trên 6 nghìn doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình (có đăng ký kinh doanh) tham gia OCOP, trong đó có khoảng 3,1 nghìn doanh nghiệp (chiếm 76,6% số doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp trong cả nước), tổ chức sản xuất 4.823 sản phẩm lợi thế thuộc 06 nhóm sản phẩm, gồm: Nhóm Thực phẩm có 2.584 sản phẩm; Đồ uống có 1.041 sản phẩm; Thảo dược có 231 sản phẩm; Vải và may mặc có 186 sản phẩm; Lưu niệm - nội thất - trang trí có 580 sản phẩm; Dịch vụ du lịch nông thôn có 201 sản phẩm.
 
Tuy nhiên, theo đánh giá của Văn phòng điều phối Nông thôn mới Trung ương, quá trình triển khai Đề án “Mỗi làng một nghề” còn tồn tại một số hạn chế. Đó là, việc phát triển làng nghề thiếu sự quản lý tập trung, sự phát triển nóng của các làng nghề đã dẫn tới tình trạng ô nhiễm môi trường tăng lên. Bên cạnh đó, chương trình mới chủ yếu tập trung vào nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống tại các làng nghề, chưa trở thành phong trào có sức lan tỏa mạnh mẽ đến cộng đồng dân cư, đặc biệt là khu vực nông thôn.
 
Với tinh thần “quốc gia khởi nghiệp”, để tạo được sự hưởng ứng của cộng đồng ở cả thành thị và nông thôn, nhất khuyến khích người nông dân làm chủ, phát huy sự chủ động, sáng tạo trong phát triển kinh tế, tháng 5/2018, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 490/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2018-2020 thực hiện trên phạm vi cả nước. Chương trình này sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông thôn cả nước theo hướng phát triển nội lực và gia tăng giá trị. Nguồn vốn và cơ cấu vốn huy động để thực hiện chương trình dự kiến khoảng 45.000 tỷ đồng, trong đó chủ yếu nguồn xã hội hóa từ vốn của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất, vốn vay từ các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, tài trợ của các tổ chức quốc tế…
 
Trọng tâm của Chương trình là sản phẩm (bao gồm cả sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch vụ) với các công việc chính là nghiên cứu phát triển, hoàn thiện sản phẩm, xây dựng mẫu mã, tiêu chuẩn chất lượng, tổ chức sản xuất và xúc tiến thương mại. Kết quả phát triển và thương mại hóa sản phẩm sẽ được đánh giá hàng năm, từ đó phân hạng để hỗ trợ xúc tiến thương mại, cải tiến sản phẩm.
 
Chương trình gồm nhiều hợp phần, trong đó các hợp phần quan trọng là hình thành và tái cơ cấu các tổ chức kinh tế tại cộng đồng, dưới dạng hợp tác xã và doanh nghiệp; nghiên cứu và phát triển sản phẩm; xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực tại cộng đồng tham gia OCOP.
 
Để triển khai hiệu quả chương trình OCOP, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa ra những giải pháp hỗ trợ như: Thành lập các Trung tâm phát triển làng nghề trên các địa bàn; Phát triển các hoạt động tư vấn về kỹ năng nghề và tổ chức sản xuất tại các làng nghề; Mở các lớp đào tạo truyền nghề tại làng; Hỗ trợ lãi suất vốn vay để phát triển sản xuất; Chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
 
Mỗi địa phương có thế mạnh, đặc điểm khác nhau,đó, sẽ có những cách làm khác nhau. Để chương trình OCOP thành công, các tỉnh, thành phố cũng cần xác định nhóm các sản phẩm lợi thế, từ đó có sự đầu tư đúng hướng, đúng tầm từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Ngoài chính sách chung của Trung ương, mỗi địa phương cần chính sách giải pháp phù hợp, sát với tình hình thực tế để đạt được các mục tiêu, trong đó quan trọng nhất chính sách thúc đẩy liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp, chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ. Cùng với đó cần nghiên cứu ban hành bộ tiêu chí đánh giá sản phẩm để định hướng sản xuất cho người dân, cũng như tổ chức các hội chợ để người sản xuất sản phẩm được cọ xát, tiếp nhận những đánh giá sản phẩm trên thị trường…
 
Sự quyết tâm của cả cộng đồng sẽ là chìa khóa để chương trình OCOP phát huy hiệu quả, tiếp sức cho Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới đạt được những kết quả như kế hoạch đặt ra./

 
Bích Ngọc
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top