Vùng có vai trò, vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh đối với cả nước. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao, thì sự nghiệp xây dựng từng vùng cũng đều phải hướng tới mục tiêu trở thành vùng phát triển, thu nhập cao. Tuy nhiên, tương quan trình độ phát triển giữa các vùng đến nay vẫn còn chênh lệch khá lớn.
Dưới đây là kết quả thực hiện các tiêu chí thành phần và xếp hạng các vùng theo chỉ số phát triển kinh tế - xã hội (Sn) và theo các chỉ số thành phần đến năm 2020 và đến năm 2021(1).
Bảng 1. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu thành phần đến năm 2020 của các vùng(2)
Bảng 2. Sơ bộ kết quả thực hiện các chỉ tiêu thành phần đến năm 2021
của các vùng(3)
Căn cứ kết quả đạt được tại Bảng 1 và Bảng 2 trên đây, áp dụng phương pháp biên soạn chỉ số (Sn) của Tổng cục Thống kê xếp hạng được các vùng theo chỉ số phát triển chung (Bảng 3), theo các chỉ số thành phần đến năm 2020 (Bảng 4), và theo các chỉ số thành phần đến năm 2021 (Bảng 5) như sau:
Bảng 3. Xếp hạng trình độ phát triển KT-XH của các vùng năm 2020 và năm 2021
Nguồn: Tính toán của tác giả
Theo Bảng 3, đến năm 2021 có hai vùng đạt trình độ phát triển khá, đứng đầu là vùng Đông Nam bộ (đạt 77,96/100 điểm), đứng thứ hai là vùng Đồng bằng sông Hồng (đạt 74,0/100 điểm); bốn vùng còn lại đạt trình độ trung bình gồm: Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung đứng thứ ba (đạt 60,99/100 điểm), vùng Đồng bằng sông Cửu Long đứng thứ tư (đạt 56,17/100 điểm), vùng Trung du và miền núi phía Bắc đứng thứ năm (đạt 51,59/100 điểm), và vùng Tây Nguyên đứng vị trí thứ sáu (đạt 49,71/100 điểm). Theo đó, tương quan trình độ phát triển giữa các vùng đến năm 2021 có sự chênh lệch khá xa, so với trình độ phát triển của vùng Đông Nam bộ là vùng đứng đầu, trình độ phát triển của vùng Tây Nguyên thấp hơn 28,25 điểm, vùng Trung du và miền núi phía Bắc thấp hơn 26,37 điểm, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn 21,79 điểm, Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung thấp hơn 16,97 điểm.
Bảng 4. Xếp hạng các vùng theo các chỉ số thành phần năm 2020
Tiếp theo Bảng 4:
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 5. Xếp hạng các vùng theo các chỉ số thành phần năm 2021
Tiếp theo Bảng 5:
Nguồn: Tính toán của tác giả
Theo Bảng 5, để thu hẹp mức độ chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, trong những năm tới, Đảng, Nhà nước và các bộ ngành Trung ương cần quan tâm chỉ đạo, bố trí các nguồn lực đầu tư cho bốn vùng chậm phát triển, trong đó chú ý ưu tiên cho vùng Tây Nguyên và vùng Trung du và miền núi phía Bắc, trước hết tập trung đầu tư nâng cao kết quả thực hiện các tiêu chí: Thu nhập bình quân đầu người, Tỷ lệ đô thị hóa, Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp, Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ, Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều, Tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt sạch và hợp vệ sinh là các tiêu chí hai vùng này còn đạt rất thấp so với vùng có trình độ phát triển hàng đầu, và so với mức chuẩn (ngưỡng) cần đạt để trở thành vùng phát triển, thu nhập cao./.
TS. Nguyễn Huy Lương
Nguyên Cục trưởng Cục Thống kê, Chủ tịch Hội Thống kê tỉnh Phú Thọ
____________________
1. Xem tóm tắt phương pháp biên soạn chỉ số đánh giá trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Tổng cục Thống kê tại Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 14-2023, phát hành ngày 03/4/2023, trang 6.
2, 3. Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2021 của Tổng cục Thống kê; Dữ liệu thống kê đất đai năm 2020 của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Dữ liệu xã nông thôn mới của Văn phòng Điều phối xây dựng nông thôn mới Trung ương và tính toán của tác giả.