Kinh nghiệm tăng năng suất lao động của một số quốc gia

20/12/2023 - 11:09 AM
Thúc đẩy tăng năng suất lao động (NSLĐ) là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển và thịnh vượng của mỗi quốc gia. Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và các nền kinh tế châu Á tiên tiến khác đã đạt được nhiều thành công trong nâng cao chất lượng lực lượng lao động và thiết lập vị thế cạnh tranh dựa trên năng suất lao động. Đây là những kinh nghiệm thiết thực để Việt Nam nghiên cứu và áp dụng phù hợp với bối cảnh cụ thể của đất nước.

Nhật Bản tập trung vào yếu tố cốt lõi là con người

Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây thiệt hại nặng nề cho Nhật Bản. Sau khi chiến tranh kết thúc, nền kinh tế quốc gia này bị rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Song ngay sau đó, nền kinh tế Nhật Bản đã từng bước khôi phục và phát triển chóng mặt nhờ chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt, sử dụng kỹ thuật và công nghệ mới để tăng NSLĐ.

Giai đoạn từ 1960-1980, Nhật Bản được biết đến là nước có NSLĐ cao hàng đầu thế giới và có quá trình cải thiện NSLĐ hiệu quả. Đạt được thành tựu này là do Nhật Bản đã sử dụng 3 công cụ quan trọng trong cải thiện NSLĐ, gồm: Hệ thống quản lý chất lượng toàn diện; Bảo trì năng suất tổng thể và Sản xuất tiết kiệm hay cải tiến liên tục. Nhờ các biện pháp tăng NSLĐ hiệu quả cùng với chiến lược phát triển của Chính phủ, trong gia đoạn này Nhật Bản đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới. 

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, NSLĐ của Nhật Bản sụt giảm đáng kể. Từ một nước đi đầu trong công cuộc tự động hóa, tập trung nâng cao khả năng sản xuất nhưng Nhật Bản lại là nước có năng suất làm việc thấp nhất trong nhóm G7. Tốc độ tăng NSLĐ của Nhật Bản đã đình trệ dưới 2% trong suốt hai thập kỷ qua, khoảng cách tăng trưởng năng suất giữa Nhật Bản và các nền kinh tế phát triển ngày càng lớn.

Do đó, cải thiện NSLĐ là một trong những bài toán cấp thiết cần giải quyết và Nhật Bản đã đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng sụt giảm NSLĐ, gồm:

Giữ chân lao động lớn tuổi nhiều kinh nghiệm. Nhật Bản tăng dần tuổi nghỉ hưu từ 60 lên 65 tuổi vào năm 2025, đồng thời đưa ra các lựa chọn việc làm cho những người lao động đến tuổi nghỉ hưu, giữ chân lao động lớn tuổi và hỗ trợ lao động tạm thời. Các công ty tư nhân nỗ lực thực hiện các mô hình việc làm linh hoạt hơn và điều chỉnh các hình thức lao động để thu hút người lao động lớn tuổi ở lại làm việc.

Bên cạnh đó, Nhật Bản hạn chế nguồn cung lao động bằng cách xem xét lại chính sách nhập cư và áp dụng các công nghệ thế hệ mới. Tạo môi trường lao động công bằng cho cả lao động lâu dài và lao động tạm thời; xây dựng các chương trình đào tạo lại nhằm đáp ứng được những yêu cầu mới của doanh nghiệp; khai thác sức mạnh của dữ liệu lớn; đưa tự động hóa lên cấp độ cao hơn; triển khai các công nghệ tiên tiến trong quy trình sản xuất và tiếp tục hành trình số hóa.

Đồng thời, cải cách hệ thống giáo dục nhằm phát triển tài năng và năng lực dài hạn, để tạo ra một thế hệ lao động mới có kỹ năng giỏi và tư tưởng tiến bộ, từ đó tăng năng suất và tính cạnh tranh; xây dựng kênh kết nối giữa giáo dục và việc làm thực sự; thu hút tất cả các nguồn lực để đào tạo nhân tài, năng lực lãnh đạo và kỹ năng cho tương lai.

Nhật Bản cũng tăng cường văn hóa khởi nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty khởi nghiệp, công ty thành lập mới, đặc biệt hỗ trợ các công ty khởi nghiệp tăng khả năng tiếp cận với nguồn vốn, hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ nhằm tạo ra hệ sinh thái cho phép các doanh nghiệp đổi mới và phát triển. Cùng với đó, thực hiện cải cách định hướng thị trường bằng cách giảm sự can thiệp của Chính phủ vào một số lĩnh vực cụ thể, gỡ bỏ rào cản cho các công ty khởi nghiệp và giảm bảo trợ đối với các công ty hoạt động kém hiệu quả.
 
Kinh nghiệm tăng năng suất lao động của một số quốc gia
Từ năm 2015, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng kế hoạch và thực hiện chương trình cải cách phong cách làm việc

Bên cạnh những giải pháp trên, từ năm 2015, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng kế hoạch và thực hiện chương trình cải cách phong cách làm việc, theo đó tổng số giờ làm thêm đã giảm và số ngày nghỉ phép năm mà người lao động sử dụng đã tăng lên; thay đổi phương thức làm việc, chuyển sang làm việc từ xa, làm việc tại nhà nhiều hơn và thay đổi cơ cấu tại nơi làm việc, tăng sử dụng lao động là phụ nữ và người nước ngoài.

Theo xếp hạng của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) tháng 9/2021 cho các quốc gia trong khu vực, chỉ số NSLĐ của Nhật Bản tính chung theo 4 trụ cột chính (kinh tế, toàn cầu hóa, quy định thị trường và chất lượng thể chế) xếp thứ 3, sau Xin-ga-po và Trung Quốc.

Hàn Quốc hướng đến giải quyết bài toán tăng cường và nâng cấp khu vực dịch vụ

Từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, NSLĐ trong lĩnh vực chế biến, chế tạo của Hàn Quốc thấp hơn 40% NSLĐ của Nhật Bản và chưa bằng 20% NSLĐ của Hoa Kỳ. Tuy nhiên khoảng chục năm sau đó, NSLĐ của Hàn Quốc bắt đầu tăng nhanh chóng, giúp thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển. Ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, NSLĐ của Hàn Quốc đã bằng 70% NSLĐ của Nhật Bản và bằng 50% NSLĐ của Hoa Kỳ. Sự thu hẹp khoảng cách mạnh mẽ này có được là nhờ tốc độ tăng NSLĐ trong những năm 1980 và 1990 của Hàn Quốc rất cao, tăng bình quân 8,6%/năm và 10,3%/năm, trong khi Hoa Kỳ tăng lần lượt là 6,3%/năm và 3,5%/năm; Nhật Bản là 6,5%/năm và 3,4%/năm.

Từ năm 1990 đến nay, NSLĐ ở Hàn Quốc duy trì tốc độ tăng bình quân 4,7%/năm, cao hơn nhiều so với mức bình quân 1,9%/năm của OECD. Tuy nhiên, tốc độ tăng NSLĐ Hàn Quốc có xu hướng chậm lại khi tiến tới biên giới tri thức toàn cầu, chủ yếu là do NSLĐ ngành dịch vụ thấp.

Để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra “Các biện pháp và định hướng chính sách ngành dịch vụ năm 2013” nhằm mục đích: Đảm bảo đối xử bình đẳng về thuế giữa hai lĩnh vực dịch vụ và chế biến, chế tạo; Cải thiện hỗ trợ tài chính từ khu vực công; Nâng cao hình ảnh xã hội của các dịch vụ; tăng cường nguồn nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ; Cung cấp hỗ trợ cho các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ. Có các chính sách ưu tiên thúc đẩy phát triển nền kinh tế sáng tạo và khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ; tăng cường các quy định liên quan đến an toàn, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng.

Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc đưa ra một số sáng kiến tăng tỷ trọng đầu tư công, ngân sách cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME); tăng cường hỗ trợ công nghệ cho các SME thông qua các chương trình khuyến nông và đổi mới, sáng tạo.

Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng tập trung phát triển ngành chế biến, chế tạo về trình độ công nghệ thông qua tăng tiết kiệm và đầu tư để tích lũy lượng lớn vốn vật chất; đẩy mạnh áp dụng công nghệ tiên tiến của nước ngoài, tăng cường giáo dục lực lượng lao động có khả năng học hỏi và tiếp thu công nghệ.

Những giải pháp trên đã góp phần cải thiện NSLĐ của Hàn Quốc. Theo số liệu về NSLĐ của ILO, giá trị trên mỗi lao động theo năm của Hàn Quốc trong giai đoạn 2011-2020 dao động trong khoảng 70.400 - 80.700 đô la quốc tế tính theo sức mua tương đương năm 2017 (PPP 2017).

Hiện Hàn Quốc đang đối mặt với tình trạng già hóa dân số diễn ra nhanh chóng, kết hợp với bình đẳng thu nhập ngày càng tăng, cho thấy tiềm năng phát triển của hàng loạt dịch vụ như chăm sóc sức khỏe, chăm sóc dài hạn và các dịch vụ công cơ bản là rất lớn. Trong giai đoạn hậu công nghiệp hiện nay, Hàn Quốc cần giải quyết tốt bài toán tăng cường và nâng cấp khu vực dịch vụ hiện đại, có năng suất cao, có giá trị gia tăng cao để trở thành động lực tăng trưởng trong những năm sắp tới.

Thành công từ Sáng kiến Thái Lan 4.0

Thái Lan là một câu chuyện điển hình của sự phát triển thành công với tốc độ tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ấn tượng. NSLĐ của Thái Lan giai đoạn 1999-2007 tăng bình quân 3,6%/năm, trong đó nửa đầu những năm 2000 tăng bình quân 3%/năm; giai đoạn 2010-2016 giảm xuống còn 1,3%/năm.

Vào cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, Thái Lan bị rơi vào bẫy phát triển do là nước có thu nhập trung bình, bất bình đẳng về thu nhập và mất cân bằng kinh tế-xã hội. Khi không còn đủ sức cạnh tranh với các nước có chi phí lao động thấp, nếu không có kỹ năng, nghiên cứu và đổi mới để cạnh tranh với các nước tiên tiến trên các thị trường giá trị cao, Thái Lan sẽ ngày càng mất đi tính cạnh tranh của mình. Để đạt mục tiêu trở thành một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2037, Thái Lan đã tập trung thực hiện chiến lược tăng trưởng dựa vào năng suất.

Tháng 5/2016, Chính phủ nước này công bố Sáng kiến Thái Lan 4.0, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước tiên tiến và đang phát triển khác, tập trung vào các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao, tạo ra nhiều nghề nghiệp có chất lượng cao hơn. Đây là kế hoạch phát triển với chặng đường 20 năm để đạt được các mục tiêu “Thịnh vượng về kinh tế, phúc lợi xã hội, giá trị con người và bảo vệ môi trường”, thông qua nâng cao năng lực cạnh tranh trong bốn ngành và lĩnh vực chính: (1) Chuyển đổi canh tác truyền thống thành canh tác thông minh trong lĩnh vực nông nghiệp; (2) Chuyển đổi các SME và doanh nghiệp sản xuất truyền thống thành doanh nghiệp nhỏ và sản xuất thông minh; (3) Chuyển đổi ngành dịch vụ, tập trung vào các dịch vụ giá trị cao; (4) Chuyển đổi lao động có kỹ năng.

Để đạt được điều này, Thái Lan đã triển khai các biện pháp cụ thể của sáng kiến, góp phần nâng cao NSLĐ là:

Thứ nhất, tập trung vào công nghệ, đổi mới và sáng tạo: Khuyến khích các công ty sản xuất sử dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến như đổi mới, kết nối, tự động hóa, robot, AI và dữ liệu lớn; tăng chi tiêu cho R&D lên 4% GDP.

Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực bằng cách nâng cao hiệu suất giáo dục và tăng cường giáo dục, đào tạo kỹ thuật, dạy nghề, cũng như khuyến khích học tập và đào tạo suốt đời. Thực hiện các bước hiện đại hóa chương trình và kỹ thuật dạy học, chú trọng nhiều hơn đến toán, khoa học, ngoại ngữ và phát triển tư duy sáng tạo.

Thứ ba, cải thiện khung chính sách để khuyến khích sự gia nhập của các doanh nhân đổi mới và các doanh nghiệp quy mô vừa. Năm 2017, chính phủ Thái Lan khởi động chương trình “Giảm tải quy định” và “Giấy phép đơn giản và thông minh” nhằm sửa đổi hoặc bãi bỏ bất kỳ hành vi pháp lý nào không còn cần thiết, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh.

Thứ tư, tăng cường hội nhập khu vực bằng cách giảm các rào cản để các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh; thúc đẩy đổi mới bằng cách tăng cường hợp tác giữa chính phủ, khu vực kinh doanh và giới học thuật.

Thứ năm, phân bổ nguồn lực hiệu quả, tạo điều kiện để chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực hiện đại hơn thông qua giáo dục, đào tạo, dịch vụ xã hội và phổ biến thông tin phù hợp.

Nhờ triển khai thực hiện sáng kiến Thái Lan 4.0, trong những năm gần đây, NSLĐ của Thái Lan đã cải thiện tích cực. Tốc độ tăng NSLĐ nói chung và tốc độ tăng NSLĐ của các ngành mà Chương trình Thái Lan 4.0 hướng tới tăng đáng kể. NSLĐ bình quân năm 2015 (trước khi thực hiện sáng kiến Thái Lan 4.0) là 12,81 nghìn USD/lao động, đã tăng lên mức 15,01 nghìn USD/lao động vào năm 2019; tốc độ tăng NSLĐ các ngành sản xuất công nghiệp, bán buôn bán lẻ và bưu chính viễn thông tăng mạnh, từ -2,4% năm 2010 lên 4,69% năm 2019. Điểm số Kinh doanh của Thái Lan năm 2020 đạt 92,4/100 và xếp hạng 47 trên thế giới. Theo Tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới, xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 năm 2019 của Thái Lan đạt 68,1 điểm, xếp hạng 40/141 quốc gia. Theo số liệu về NSLĐ của ILO, giá trị trên mỗi lao động theo năm của Thái Lan trong giai đoạn 2011-2020 dao động trong khoảng 24.500-33.400 đô la quốc tế theo PPP 2017.
 
Kinh nghiệm tăng năng suất lao động của một số quốc gia  1
Nhờ triển khai thực hiện sáng kiến Thái Lan 4.0, trong những năm gần đây, NSLĐ của Thái Lan đã cải thiện tích cực

Ma-lai-xi-a triển khai chương trình đổi mới và chuyển đổi nền kinh tế dựa trên tri thức

Kết quả tăng NSLĐ của Ma-lai-xi-a cũng là kinh nghiệm đáng học hỏi trong khu vực ASEAN.

Giữa những năm 90 của thế kỷ trước, Ma-lai-xi-a đã triển khai chương trình đổi mới và chuyển đổi nền kinh tế từ dựa trên đầu vào sang dựa trên tri thức; chuyển nền kinh tế ban đầu là nông nghiệp và dựa vào hàng hóa sang nền kinh tế có ngành chế biến chế tạo và dịch vụ phát triển mạnh mẽ, trở thành nước xuất khẩu hàng đầu về thiết bị điện tử và linh kiện.

Năm 2015, Chính phủ nước này ban hành Kế hoạch Ma-lai-xi-a lần thứ 11 (giai đoạn 2016-2020) với mục tiêu tăng NSLĐ đầy tham vọng là 3,7% mỗi năm. Kế hoạch chỉ ra 5 động lực tiềm năng có thể thúc đẩy tăng NSLĐ, bao gồm: (1) Nhân tài: Xây dựng lực lượng lao động tay nghề cao và giảm dần phụ thuộc vào lao động tay nghề thấp. (2)  Công nghệ: Tăng cường đầu tư vào công nghệ và kĩ thuật số; (3) Chính sách ưu đãi và hỗ trợ tài chính liên kết trực tiếp tới NSLĐ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và hoạt động kinh doanh; (4) Môi trường kinh doanh: Thực hiện cắt giảm rào cản pháp lý, xây dựng các quy định nhất quán để cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí hoạt động cho doanh nghiệp; (5) Thay đổi tư duy NSLĐ hiệu quả: Nâng cao nhận thức và hiểu biết về tầm quan trọng và lợi ích do NSLĐ đem lại ở cấp doanh nghiệp, hướng dẫn đo lường và theo dõi NSLĐ.

Nhờ đó, NSLĐ của Ma-lai-xi-a tăng trưởng dương liên tục từ năm 2010 đến năm 2019. Đặc biệt vào năm 2010, NSLĐ của Ma-lai-xi-a tăng 5,8%, cao hơn hầu hết các quốc gia thuộc OECD như Hàn Quốc (4,9%), Nhật Bản (4,1%), Thụy Điển (4,4%), Đức (3,5%), Hoa Kỳ (2,7%), Phần Lan (2,7%).

Riêng năm 2016, NSLĐ chung của Ma-lai-xi-a gấp 2,5 lần so với năm 1985. Theo giá so sánh năm 2010, NSLĐ tăng từ khoảng 28.000 RM/ lao động năm 1985 lên 71.000 RM/lao động năm 2016, do NSLĐ của ngành chế biến chế tạo gấp gần 3,5 lần; dịch vụ gấp khoảng 2,5 lần, nông nghiệp gấp 2 lần.

Tuy nhiên, mặc dù giá trị NSLĐ của Ma-lai-xi-a gấp 2,5 lần nhưng tốc độ tăng NSLĐ của quốc gia này đã chậm lại đáng kể trong giai đoạn 1985-2016. Từ năm 1985 đến năm 1996, NSLĐ tăng bình quân 3,9%/ năm. Con số này giảm xuống còn 3,6% trong giai đoạn 2000-2007 và 2,5% trong giai đoạn 2011-2016. Tốc độ tăng NSLĐ của Malai-xi-a đã giảm từ 5,8% năm 2010 xuống còn 2,2% năm 2019. Sự sụt giảm NSLĐ diễn ra cả ở ba ngành kinh tế chính sử dụng đến 90% tổng số lao động cả nước là ngành nông nghiệp; ngành chế biến, chế tạo và dịch vụ.

Theo số liệu của ILO, giá trị lao động theo năm của Ma-lai-xi-a giai đoạn 2011-2020 dao động trong khoảng 49.000-59.000 đô la quốc tế theo PPP 2017.

Kết quả trên dẫn đến mức NSLĐ của Ma-lai-xi-a tiếp tục tụt hậu so với các nước tiên tiến. Theo PPP 2017, NSLĐ của Ma-lai-xi-a trong năm 2020 bằng 78,6% so với Hoa Kỳ và bằng 36,5% Xin-ga-po, nhưng lại vượt trội so với các nước cùng khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, In-đônê-xi-a, Ấn Độ và Việt Nam, tuy nhiên các quốc gia này đang có tốc độ tăng NSLĐ cao hơn và sẽ nhanh chóng bắt kịp Ma-lai-xi-a.

Năm 2020, NSLĐ của Ma-lai-xi-a đã giảm 5,5%, còn 89.025 RM/lao động do tác động của đại dịch Covid-19.

Để vượt qua tác động của đại dịch và phục hồi NSLĐ, Ma-lai-xi-a kêu gọi khu vực công và tư nhân nâng cao NSLĐ trong sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ; các doanh nghiệp cần tập trung vào hiệu quả quy trình sản xuất và tận dụng công nghệ kỹ thuật số để mở rộng thị trường. Tiếp tục thực hiện 5 động lực thúc đẩy tăng NSLĐ đã đề ra trong Kế hoạch NSLĐ giai đoạn 2016-2020, trong đó nhấn mạnh vai trò của công nghệ kỹ thuật số để tăng NSLĐ. Tháng 02/2021, Thủ tướng Ma-lai-xi-a phê duyệt Kế hoạch chi tiết nền kinh tế kỹ thuật số (MyDigital) nhằm đưa quốc gia trở thành một chính phủ hỗ trợ kỹ thuật số trong tương lai. MyDigital đặt mục tiêu tăng 30% NSLĐ của tất cả các lĩnh vực vào năm 2030 và điều chỉnh các hoạt động đã thực hiện trong năm 2021 nhằm hướng tới mục tiêu này.

In-đô-nê-xi-a

In-đô-nê-xi-a có lực lượng lao động lớn thứ tư trên thế giới và lớn nhất ở Đông Nam Á. Quốc gia này sở hữu lực lượng lao động trẻ, năng động giúp thu hút đầu tư nước ngoài và là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong hai mươi năm qua.

Trong giai đoạn 2010-2015, thị trường lao động của In-đô-nêxi-a đã đạt được một số tiến bộ nhất định. Số việc làm thường xuyên đã tăng từ 35 triệu lên 46 triệu việc làm; NSLĐ tăng bình quân 4,3%/ năm tính theo giá trị thực. Tuy nhiên, theo phân tích, NSLĐ nước này tăng là do tốc độ tăng của việc làm chậm lại mà không phải là do hiệu quả được cải thiện.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đánh giá thị trường lao động Inđô-nê-xi-a còn tồn tại hạn chế, như: 50% lao động không đủ tiêu chuẩn đối với vị trí việc làm của mình; phần lớn nhân công làm việc theo hợp đồng thời vụ hoặc không chính thức và thường không có chứng nhận đào tạo nâng cao kỹ năng. Tốc độ tăng tiền lương trung bình chậm. Nhiều lao động có thu nhập dưới ngưỡng quy định.

Để giải quyết vấn đề này, năm 2014, Chính phủ In-đô-nê-xi-a đưa ra Chương trình nghị sự phát triển Nawa Cita, đặt trọng tâm vào cải thiện mức sống, tăng năng suất và khả năng cạnh tranh. Tháng 01/2015, chính phủ nước này cụ thể hóa Chương trình nghị sự Nawa Cita thành Kế hoạch phát triển quốc gia giữa kỳ giai đoạn 2015-2019 với kỳ vọng sẽ tạo thêm việc làm tốt hơn và tăng NSLĐ. Theo đó, Chính phủ In-đô-nê-xi-a tập trung cải thiện ba vấn đề, bao gồm:

Một là, liên kết hiệu quả hơn giữa tiền lương và NSLĐ. Chính phủ nước này thực hiện giải pháp đổi mới cách thức thay thế cho việc thương lượng trả lương ở cấp ngành, cấp doanh nghiệp; đồng thời cải thiện công tác quản lý thị trường lao động để đảm bảo tăng tỷ lệ tuân thủ quy định về tiền lương.

Hai là, tăng cường mối quan hệ giữa tính linh hoạt đối với doanh nghiệp và an sinh cho người lao động. Tập trung xử lý tình trạng hợp đồng ngắn hạn, đảm bảo khung pháp lý để kết hợp hài hòa giữa tính linh hoạt dành cho doanh nghiệp và an sinh cho người lao động. Đưa ra các quy định của Luật Lao động (về hợp đồng ngắn hạn, thuê ngoài, sa thải, trợ cấp thôi việc và bảo hiểm thất nghiệp) nhằm thúc đẩy xây dựng kỹ năng và tăng năng suất.

Ba là, nâng cao hệ thống và động lực để xây dựng kỹ năng. Đẩy mạnh đầu tư hỗ trợ xây dựng kỹ năng để thúc đẩy tăng NSLĐ và tăng việc làm hiệu quả. Tăng cường đầu tư vào giáo dục, từ đó mở rộng nguồn lao động có trình độ học vấn.

Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên giá trị trên mỗi lao động của In-đô-nê-xi-a tăng qua các năm, trong giai đoạn 2011-2020 dao động trong khoảng 19.100-24.400 đô la quốc tế theo PPP 2017. Theo Chỉ số cạnh tranh của Tổ chức năng suất châu Á (APO) công bố tháng 9/2021, chỉ số năng suất của In-đô-nê-xi-a tăng từ 0,884 năm 2014 lên 0,900 năm 2020, đều xếp hạng thứ 11 trên 21 quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên APO./.
P.V
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top